Nữ Anh Hùng đất Gò Công.
Trước năm 75 tại ngã tư Hồng Thập Tự & Lê Văn Duyệt Sài Gòn có tấm bảng dựng hình ảnh nữ liệt sĩ Phạm Thị Thàng tại góc ngã tư này.
Bảy Hiền
Phạm Thị Thàng nữ Anh hùng đất
Gò Công
Tác giả: Phạm Phong Dinh
Chị Thàng đã chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào
lòng, chị
Thàng bình tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào,
chị
rút chốt.
NHỮNG NGƯỜI
VỢ
LÍNH THỜI
LỬA
BINH
Trong cuộc chiến tranh bảo quốc chống ngăn cơn sóng đỏ của cộng sản quốc tế với đạo quân tay
sai tiền
kích của
chúng là binh đội
cộng
sản
Bắc
Việt
và Việt
cộng
miền
Nam, khuôn mặt
của
những
người
vợ
lính dường
như
đã rất
mờ
nhạt
đằng
sau chất
muối
trắng
đẫm
đầy
trên lưng
áo của
những
người
lính Quân Lực
Việt
Nam Cộng
Hòa. Nhưng
chiến
tranh càng nặng
độ
thì hình ảnh
những
người
chị
vô danh ấy
đã dần
hiện
rõ trong một
ánh sáng diệu
kỳ, mà chúng ta chỉ
có thể
cúi người
thật
sâu xuống
để
tôn vinh và ngợi
ca. Ðó là những
người
lính không có vũ khí, không số quân, không tiền lương,
không cả lương thực hành quân,
nhưng
là những
người
lính tỏa
hào quang chói sáng nhất trong những hoàn cảnh nghiệt
ngã thắt
ngặt
nhất,
mà đã góp phần
đem chiến
thắng
quyết
định
trên chiến
trường.
Ðó là NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH, những người chị cao cả mà đã cùng
chồng
dấn
mình trong cơn
bão lửa
của
chiến
tranh, cùng chia sẻ
cái chết,
có khi các chị
hy sinh trước
cả
các anh. Những
cái chết
anh dũng trong âm thầm
đó nào ai biết
được.
Không có Lá Quốc
Kỳ Vàng Ba Sọc
Ðỏ
phủ
trên chiếc
quan tài được
ghép thành từ
những
mảnh
ván đơn
sơ,
không có chiếc
huy chương
Anh Dũng Bội
Tinh Với
Nhành Dương
Liễu,
không cả
tiếng
kèn truy điệu
ai oán.
Những người lính đóng đồn cùng vợ con của các anh
cùng sống
chui rúc trong những
cái hầm
tối
tăm ngột
ngạt,
dưới
những
những
cái hố nhỏ ngập đầy nước. Những người lính nghèo
nàn, rách rưới
và tội
nghiệp
co ro ôm súng gác giặc
và đánh giặc
trong cái lạnh
xé thịt
của
đêm. Ăn uống
thì đạm
bạc
đến
không có gì đạm
bạc
hơn
được
nữa.
Một
cái nồi
cơm
méo mó, với
vài con cá nhỏ
kho trong chất
nước
mắm
hạng
bét mặn
chát những
muối,
một
dĩa rau muống
ruộng
hay rau đắng
xơ
xác, mà có thể
tìm thấy
mọc
đầy
khắp
những
vũng nước
đọng
trên những
cánh dồng
lầy.
Cả gia đình người lính Ðịa Phương Quân hay
Nghĩa Quân quây quần
chung quanh mâm cơm
đơn
sơ
đó chấp
nhận
sự
thua thiệt
của
mình. Không than thở,
không ta thán và vui lòng với niềm
hạnh
phúc mong manh của
mình. Một
năm 365 ngày, mười
năm, hai mươi
năm, cho đến
ngày cuối
cùng của
cuộc
chiến,
hơn
bảy
ngàn đêm những
người
chị ấy chưa từng bao giờ biết ngủ yên giấc là gì. Chị thao thức đến nửa khuya, lắng nghe tiếng đại bác vọng ì ầm về thành phố từ phía mặt trận có anh ở đó, chị thổn thức nguyện cầu cho anh được bình yên, để anh có một ngày được về với chị và con, dù
chỉ
là những
khoảnh
khắc
về
phép thật
quá hiếm
hoi. Hay nếu
chị
cùng chồng
trấn
thủ lưu đồn, anh chiến đấu cơ cực như thế nào, anh ăn
ngủ
chập
chờn
ra sao, thì chị
cũng cơ cực và chập chờn ngần ấy.
CHỊ PHẠM THỊ THÀNG, NỮ ANH THƯ ÐẤT GÒ CÔNG
Người vợ lính ở tiền đồn cáng đáng
cùng một
lúc hai công việc,
mà công việc
nào cũng biểu
hiện
hình ảnh
và đức
tính cao quí của
người
phụ nữ Việt Nam. Thứ nhất, đức tính đảm đang tận tụy của người vợ, người đàn bà Việt Nam quán
xuyến
chuyện
gia đình, trông nom dạy dỗ
con cái và nấu
nướng
những
bữa
ăn.
Thứ hai, khi
quân giặc
đã thấy
dẫy
đầy
ngoài những
vòng rào kẽm
gai, thì những
người
nữ
chiến
sĩ chưa
từng
một
ngày được
huấn
luyện ở quân trường ấy đã chiến đấu như bất cứ người lính chuyên
nghiệp
nào. Chị
cũng biết
dùng máy truyền
tin gọi
Pháo Binh, chị
biết sử dụng thành thạo mọi loại súng trong
đồn
có, chị
ném lựu
đạn
ác liệt
và chính xác, tấm
thân nhỏ
bé của
chị oằn nặng dưới những thùng đạn tiếp tế. Và chị cũng sẵn sàng nằm gói thân
thiên thu trong chiếc
poncho, để
tên chị
vĩnh viễn
đi vào lịch
sử.
Chúng ta có nhiều
người
chị
như vậy lắm. Ở ngay tại đồng Giồng Ðình này
thì ít nhất
cũng có những
chị
Phạm
Thị
Thàng và Trần
Thị
Tâm.
Ðêm
2.10.1965, với
âm mưu
làm xáo trộn
hệ
thống
tiếp
viện
của
những
đơn
vị
diện
địa
trong khu vực
Tiền
Giang để dễ dàng thanh
toán mục
tiêu chính nào đó, chỉ trong một
đêm Việt
cộng
đã tổ
chức
tấn
công 11 vị
trí của
quân ta với
quân số
thật
lớn.
Ðồn
Giồng
Ðình thuộc
tỉnh
Gò Công cũng bị
áp lực
rất
nặng
của
quân địch
khi hứng
chịu
cuộc
cường
kích của
300 lính cộng.
Ðây là một lực lượng chính qui
Việt
cộng
với
hỏa
lực
rất
mạnh,
chúng quyết
tâm hủy
diệt
đồn
Giồng
Ðình nhỏ
bé, mà chỉ
có vỏn
vẹn
một
Trung Ðội
Nghĩa Quân 24 tay súng trấn giữ.
Là những
con ác quỷ
hung tợn
và thâm độc,
lực
lượng
cộng
quân đã bố
trí ở hướng có nhiều nhà dân chúng,
vừa
làm bia đỡ đạn cho chúng,
vừa
ngoác miệng
tuyên truyền
gây căm thù nếu
quân ta bắn
trả.
Người
dân, nhất
là những
ông bà lão già, đàn bà và trẻ con luôn luôn là những cái bia sống đỡ đạn cho bọn giặc hèn nhát gọi là những “người giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí
hùng hậu ấy mà chúng
cũng ngán ngại
24 chiến
sĩ Nghĩa Quân Quân Lực
Việt
Nam Cộng
Hòa đến
nỗi
phải
cậy
nhờ đến máu thịt của đồng bào để có cơ may thủ thắng, thì còn từ ngữ nào, hình
dung từ tồi tệ nhất nào để diễn tả bộ mặt cùng hung cực ác rất đốn mạt của cộng sản nữa không.
Ðúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thượng Úy Sáu
Bích, đã mở
cuộc
tấn
công từ
hai mặt
đánh vào Giồng
Ðình, với
sự
tin tưởng
điên rồ,
rằng
chúng sẽ
thanh toán cái tiền
đồn
nhỏ
xíu này trong một
thời
gian ngắn.
Chiến
thắng
dường
như là
chắc
chắn,
vì với
quân số mười lần hơn, mười đè một, dẫu chúng có
thí chín tên thì cũng có thể hạ gục được một chiến sĩ Nghĩa
Quân Giồng
Ðình.
Trên lý thuyết, thì giả thiết đó dường như đúng. Nhưng trên trận địa, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa luôn
luôn thể
hiện
những
chuyện
phi thường,
mà rất
hằng
hiện
hữu
trên bất
kỳ chiến
trường
nào, quả
thật
cộng
quân đã chọn
lầm
mục
tiêu. Sau ba đợt
tấn
công hung bạo,
tưởng
gạch
đá cũng phải
nát thành tro, đã chiếm được
2 trong số 3
lô cốt
trong đồn,
cộng
quân vẫn
phải
rút trở
ra. Cuộc
tấn
công lần
thứ tư được hối hả tổ chức và thực hiện, với quyết tâm san bằng Giồng Ðình. Nhưng liệu 24 chiến sĩ Nghĩa
Quân có cho phép điều
đó không. Câu trả lời là không,
không chỉ đến từ ý chí hừng hực tử thủ của các anh, mà
còn là từ
đôi bàn tay yếu
mềm
của
những
người
vợ
lính đang sống
cùng với
chồng
con của
các chị
trong đồn.
Phải,
cuộc
chiến
thắng
cuối
cùng của
Nghĩa Quân đồn
Giồng
Ðình sẽ
không thể
thực
hiện
được,
nếu
không có sự
góp sức
chiến
đấu
của
những
người
chị
này. Giặc
đến
nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ
những
người
chị
dũng cảm ấy không thôi,
mà cả
trẻ
con cũng đánh.
Ðồn Giồng Ðình nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong
tỉnh
Gò Công, do một
Trung Ðội
Nghĩa Quân trấn
giữ,
với
thành phần
chỉ
huy gồm
có anh Nguyễn Văn
Thi, Ðồn
Trưởng,
anh Lê Văn Hùng, Ðồn
Phó và anh Lê Văn Mẫn,
âm thoại
viên. Trấn
thủ một vị trí hung hiểm như vậy, không chỉ có 24 tay
súng mà đã đủ,
nên tất
cả
những
người
vợ
lính trong đồn
đều
đã được
chồng
huấn
luyện
sử dụng thành thạo những loại máy móc
truyền
tin và vũ khí. Như vậy số tay súng đã
được
nhân lên gấp
đôi.
Trong nhiều trường hợp, đến những giây phút
tử
sinh tuyệt
vọng
nhất,
những
em bé cũng tham chiến,
khi các em gan dạ
bò dưới
lưới
đạn
của
giặc
để
đem tiếp
tế đến cho cha và
mẹ.
Không ai buộc
những
người
vợ
lính, con lính cầm
súng đánh địch.
Nhưng
chính những
người
vợ
lính, con lính ấy
làm sao có thể ẩn náu tìm cái
sống
trong khi chồng
và cha của
họ sắp ngã gục ngoài chiến hào.
Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ chức tấn công, thì
tình trạng
bên trong đồn
Giồng
Ðình đã khá là bi đát. Ðã có đến 16 chiến
sĩ Nghĩa Quân bị
thương,
chỉ
còn 8 Nghĩa Quân còn chiến đấu
được.
Âm thoại
viên Lê Văn Mẫn
bị
thương
ở đầu trong lúc
anh đang cố gắng gọi máy về Tiểu Khu.
Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc được tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên, và là
cứu
tinh của
đồn
Giồng
Ðình. Ở một góc đồn, anh Lê Văn
Hùng và chị
Phạm
Thị
Thàng, vợ
anh, và hai đứa
con nhỏ
đang phải
đối
đầu
với
một
lực
lượng
quá đông của
địch.
Nhìn ra ngoài
hàng rào kẽm
gai, giặc
đã đã tràn vào đen ngòm như những
con quái vật
hung hãn. Anh Hùng chỉ còn trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc phá và súng
SKZ của
Việt
cộng
bắn
vào quá gần,
các em không còn khóc được nữa
mà đã nằm
bất
động
dưới
chân hai vợ
chồng
anh Hùng. Chị
Thàng thì thào:
– Chúng đang
phá lô cốt
chánh, để
em bắn
yểm
trợ
anh bò về
giữ.
Lô cốt
mất
là đồn
mình mất,
em nằm
tại
đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn
vào thì… thì… em ném lựu đạn
ra, có thể cầm cự đến sáng được.
Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nhìn vợ con, rồi nhìn về phía lô cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đã yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân
cố
thủ ở đó đã kiệt quệ quá rồi. Số phận của anh Thi Ðồn Trưởng thế nào. Anh
Hùng lắc
đầu
không dám nghĩ đến
chuyện
xấu
nhất
đã xảy
ra cho đồng
đội.
Nhưng
nếu
Việt
cộng
chiếm
được
lô cốt ấy, thì coi như đánh dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù quyết định đó quá đau
xót, là bỏ lại vợ con, mà
trong lúc quân giặc
đã hò hét ngay sát bên rồi:
– Anh chạy
theo giao thông hào, em bắn yểm
trợ
cho anh.
Anh Hùng nhìn
chị Thàng
và hai đứa
nhỏ lần cuối cùng. Trong
lòng anh quặn
lên một
nỗi
bi thương.
Trời ơi, vợ con mình.
Hai đứa
nhỏ
chẳng
biết
còn sống
hay đã chết.
Anh phóng mình xuống
hào chạy
băng băng về hướng lô cốt. Cây
Carbine trên tay chị
Thàng run lên, những
tràng đạn
rải
vào những
cái bóng đen đã quá gần. Anh Hùng đã bò vào được lô cốt, giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng đồn vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn có thể nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng.
Nước mắt anh rơi lả chả trên nền đất. Anh đã đếm được đến con số 15, mà tiếng súng của địch vẫn nỗ dòn dã ngay
sát tuyến
phòng thủ của chị Thàng. Anh
biết
giây phút định
mệnh
thảm
thiết
nhất
cũng đã điểm.
Chị
Thàng sẽ
làm gì với
quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng
đau đớn
rên lên trong lòng : “Chỉ còn một
trái lựu
đạn
nữa
thôi, làm sao em cầm
cự được đến sáng”.
Chính anh cũng không có được một
giây để
nghĩ tiếp
cái gì sẽ xảy đến cho vợ con mình, vì
dưới
chân lô cốt
anh tử
thủ
đã đông nghẹt
quân giặc.
Ðủ mọi thứ loại súng nổ chát chúa khắp đồn, anh Hùng
không biết
chắc
là mình đã nghe được
tiếng
nổ của trái lựu đạn thứ 16 chưa.
Cuộc chiến đấu đã kéo dài
được
một
tiếng
đồng
hồ,
quân địch
đã phá được
lớp
kẽm
gai cuối
cùng và sắp
tràn ngập
đồn
Giồng
Ðình. Lúc đó là 3 giờ
sáng rạng
ngày 2.10.1965. Tình hình đã quá nguy ngập. Anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn Trưởng, quyết định thà hy
sinh còn hơn
là để đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay chị Tâm và thét
lớn:
– Hãy bắn
lên đầu
chúng tôi ! Bắn
vào giữa
đồn…
Hai lô cốt
thứ
nhứt
và thứ
hai đã thất
thủ.
Tụi
tui ở
lô cốt
thứ
ba. Hãy bắn
lên trên đầu
chúng tôi, Việt
cộng
đông lắm.
Bắn
đi… bắn…
Sau tiếng gọi thống thiết của người Ðồn Trưởng, Pháo Binh
Tiểu
Khu Gò Công lập
tức
bắn
vào đồn
với
loại
đầu
nổ
cao. Loại
đạn
đặc
biệt
này nổ
khi cách mặt
đất
chừng
4, 5 thước,
rất
hữu
hiệu
tiêu diệt
biển
người
địch,
quân ta núp trong lô cốt vẫn
có hy vọng
sống
sót. Những
cái bóng đen nhập
nhoạng
dưới
ánh sáng hỏa
châu văng tung tóe, tiếng kêu dẫy
chết
của
chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng tràng
đạn
nổ
cao vẫn
dội
ùng oàng xuống
đồn.
Chiếc
lô cốt
cuối
cùng vẫn
đứng
vững,
anh Thi cùng anh Hùng từ trong những lổ
châu mai bắn
tỉa
từng
tên địch.
Giữa
tiếng
súng nổ
dòn, dường
như
người
ta nghe âm thanh rì rì của máy bay. Không Quân Việt Nam đã tới. Những chiếc A1 khu trục cơ đã xuất kích. Ðến đây thì “Thượng Úy” Việt cộng Sáu Bích,
tên chỉ
huy trận
đánh đã có thể
nhận
thấy
rằng,
cuộc
tấn
công đồn
Giồng
Ðình đã đánh dấu
chấm
hết,
với
phần
thắng
nghiêng về
phía Nghĩa Quân Việt Nam
Cộng
Hòa. Lúc 4 giờ
30 sáng, chiến
địa
hoàn toàn im tiếng
súng. Quân địch
đã kéo những
xác chết
và những
tên bị
thương
chạy
trốn
vào phía bóng tối.
Khi ánh hừng đông của một ngày mới đã lên, hai
Ðại
Ðội
Ðịa
Phương
Quân do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng
Gò Công chỉ
huy đã đến
và tổ
chức
bung quân ra lục
soát. Quân cộng
đã để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có 6 xác
khác nằm
bên cạnh
lô cốt
thứ
ba, nơi
mà anh Ðồn
Trưởng
Thi, Ðồn
Phó Hùng và chị
Tâm giữ
máy truyền
tin đã kháng cự
mãnh liệt,
thà chết
không hàng. Những
tên Việt
cộng
này mang trên mình rất
nhiều
lựu
đạn
và bộc
phá, chắc
là chúng quyết
thí mạng
để
phá cho bằng
được ổ kháng cự cuối cùng này.
Anh Thi và
anh Hùng đã bắn
địch
theo lối
xâu chéo, nghĩa là bắn
chéo góc với
nhau tạo
thành một
xạ trường quét gọn tất cả những tên cộng nào nằm trong đó.
Ngày hôm sau, một
người
thường
dân bị
Việt
cộng
bắt
đi tải
thương
lén trốn
về được đã cho biết số bị thương của chúng chở đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính cộng may mắn bị thương tên Dương Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù
binh. Tại
sao may mắn
? Vì nếu
anh ta bị
kéo đi theo vào bưng
biền,
nếu
không bị
chết
vì nhiễm
trùng, bị
những
quân y sĩ Việt
cộng
cưa
cắt
bằng
những
loại
cưa
và đục
của
thợ mộc, thì cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi
thủ
tiêu. Ðó là lý do giải
thích tại
sao sau ngày 30.4.1975, người dân Miền
Nam hiếm
thấy
người
thương
phế
binh cộng
sản
trên đường
phố.
Nhưng đối với anh Hùng,
thì tất
cả
những
gì mà Viêt cộng
đã trả
giá cho cuộc
tấn
công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng vừa chấm dứt., quân cộng đã rút đi,
thì anh đã như một người điên lao
mình ra chỗ
chiến
hào mà chị
Thàng đã một
mình một
súng trấn
giữ ở đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái lựu đạn thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng
bò vào khúc hào mà anh đã nuốt nước
mắt
chạy
đi. Chị
Thàng cùng hai đứa
con của
anh nằm
chết
bên cạnh
ba xác Việt
cộng.
Anh Hùng gục
xuống
như
thân cây chuối
bị một nhát dao
bén chém ngọt
làm đôi. Anh biết,
nếu
trái lựu
đạn
thứ
16 nổ
thì chị
Thàng cũng đi vào cõi chết, vì chị
Thàng sẽ
không bao giờ
cho phép giặc
bắt
chị
hoặc
đạn
của
chúng bắn
vào người
chị.
Chị
Thàng đã chọn
một
cái chết
thật
dũng cảm
và cao cả.
Ôm hai đứa
con vào lòng, chị
Thàng bình tĩnh chờ
cho những
tên Việt
cộng
nhào vào, chị
rút chốt!
Tiếng nổ kinh thiên
cùng với
xác thịt
và máu của
người
nữ
chiến
sĩ đó đã được
đánh đổi
với
ba mạng
giặc.
Anh Hùng ôm xác vợ
con vào lòng và gần
như
ngất
xỉu.
Nhưng
khi nhìn ra ngoài, những xác giặc thù nằm
ngỗn
ngang khắp
nơi,
trong nỗi
đau khổ tột cùng của mình, anh
Hùng thấy
trong lòng dậy
lên một
niềm
tự
hào đến
nghẹn
ngào. Sự
hy sinh của
chị
Thàng đã cứu
sống
được
tất
cả
những
thương
binh Nghĩa Quân cùng vợ con các anh, nhưng trên hết cứu
sống
chính sinh mạng
của
người
chồng
mà chị
yêu mến.
Những
viên đạn
Carbine và 15 trái lựu
đạn
của
chị
đã đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Ðình. Một người lính chuyên
nghiệp
và thiện
chiến
nhất
cũng chỉ
làm được
đến
ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không đứng vững, thì chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân
và vợ
con của
đồng
Giồng
Ðình đều
sẽ
chết
hết.
Anh Hùng ẳm chị Thàng ra
ngoài, để
trông thấy
những
người
còn sống,
những
người
vợ
lính khác đã gục
đầu
khóc tiếc
thương
chị
Thàng. Những
nấm
mộ đất được đắp vội với ba tấm bia tang
tóc. Một
của
chị
Phạm
Thị
Thàng, và hai kia của
cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ.
Ôi, những
người
vợ của lính trong
thời
lửa
binh. Chị
Phạm
Thị
Thàng, chị
Trần
Thị
Tâm, và nhiều
người
chị
khác trên khắp
nẽo
chiến
trường,
chị
Thạch
Thị Ðịnh, chị Bùi Thị Xiếu, chị Am Reng. Người lính của chúng ta,
những
công dân xếp
hạng
chót nhất
trong bậc
thang xã hội,
nhưng
là những
người
hứng
chịu
oan nghiệt
trước
nhất,
là bức
tường
chắn
cho sự
an toàn của
hậu
phương
phồn
thịnh
và hạnh
phúc. Trong đời
của
các anh không có được
một
thứ ưu tiên vật chất nào cả, ngoài cái ưu tiên phải hy sinh và
chết.
Có những
người
lính từ
Miền
Tây ra tận
miền
hỏa
tuyến
hay trên vùng cao nguyên sương mù Miền
Trung, nhiều
năm liền
không có lấy
được
một
ngày phép về
thăm gia đình. Nếu
anh may mắn,
thật
đau xót, quân thù bắn
anh bị
thương,
thì anh mới
có cái diễm
phúc được
nắm
trong tay tờ
giấy
phép. Còn nếu
sự gọi là may mắn đó đi xa hơn một bước, anh chết, thì anh được phép dài hạn trở về và vĩnh viễn được an nghỉ ở nơi đã sinh ra
anh. Ðầu
năm 1972, trong một
trận
đánh của
Sư
Ðoàn 3 Bộ
Binh tại
khu vực
Cồn
Tiên nằm
sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ sông Bến
Hải,
một
tiểu
đoàn sau nhiều
ngày cố gắng đã không
thể
chiếm
được
một
cao điểm.
Vị
Tiểu
Ðoàn Trưởng
gọi
bốn
người
lính gốc
Miền
Tây lên hứa
sẽ cấp mỗi anh mười ngày phép nếu các anh chiếm được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng sĩ
Kinh Kha đã nai nịt
tề
chỉnh,
mang thật
nhiều
lựu
đạn
bò lên, mỗi
người
cầm
một
cây gậy
ngắn
dò đường.
Ðêm tối
như mực. Hễ chọt trúng cái lổ nào là thảy lựu đạn vô cái lổ đó, vì ở đó chính là
cái miệng
hầm
chốt
của
địch.
Ðến
sáng, bốn
người
dũng tướng
vô danh đó đã reo hò trương Cờ
Vàng Việt
Nam trên đỉnh
cao điểm.
Ôi, những
ngày phép đã trở
thành một
ân huệ
chứ
không phải
là một
quyền
lợi
đương
nhiên của
những
người
lính trận.
Người vợ lính cùng
chia sẻ với chồng những nỗi đắng cay thiệt thòi đó, bằng tất cả sự câm nín nhẫn nhục và vui lòng
với
những
gì mình có. Một
góc hầm
tối
tăm, một
chiếc
ghế bố cũ, vài cái
nồi,
chảo
nhem nhuốc,
những
cái chén sành và những
đôi đũa tre, cùng tiếng
cười
của
lũ trẻ
thơ
cũng đủ
làm nên thành niềm
hạnh
phúc vĩ đại
của
những
người
vợ
lính. Chị
Thàng đã chết
đi, anh linh của
chị
cùng hai cháu bé đã thăng thiên lên cõi vĩnh hằng, nhưng những người còn sống cùng thời với chị, cho mãi đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ quên tên chị. NGƯỜI CHỊ CAO CẢ PHẠM THỊ THÀNG. Vì
tên chị
đã được
trân trọng
ghi chép vào những
trang bi tráng nhất
của
lịch
sử
dân tộc
Việt
Nam chống
Cộng
sản
quốc
tế
và Cộng
sản
Hà Nội,
một
lũ hung đồ
diệt
chủng,
diệt
dân tộc
gớm
ghiếc
nhất
của
thế kỷ thứ 20 và của lịch sử hình thành
nhân con người
Trường Tiểu học Võ Thị Lớ mới
xây dựng sau năm 75, ở đây ngày trước là đồn bót của Nghĩa quân tên là đồn Giồng
Đình vì kế bên có ngôi đình thần. Trận chiến ác liệt mà chị Thàng nằm xuống tại
đây với quả lựu đạn thứ 16. Thôn ấp cũng gọi là ấp Giồng Đình
Ảnh: Bảy Hiền
__._,_.___
Posted by: Hien Do <bayhien49@gmail.com>
•
|
•
|
•
|
•
|
Check out the automatic photo album with 3 photo(s) from
this topic.
Comments
Post a Comment