Trận Chiến Ngoại Tệ Sắp Tới
26/11/201400:00:00
Nguyễn Xuân Nghĩa
"Phải chăng đã đến ngày tàn của đảng Cộng sản Việt Nam"?
Trong
khi đồng Mỹ kim cứ lên giá liên tục so với các ngoại tệ chính yếu khác
thì đồng Yen của nền kinh tế đứng hàng thứ ba thế giới là Nhật Bản lại
sụt giá mạnh và còn có thể sụt nữa. Vì sao lại như vậy và hậu quả cho
các nền kinh tế khác trên thế giới sẽ là gì? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu
nguyên do và ảnh hưởng của sự chuyển động ấy qua phần phân tích cùa
chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Xin quý thính giả theo dõi cách
Việt Long nêu vấn đề như sau đây.
Việt Long: Xin
kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Cách đây một tháng, khi Quỹ Tiền tệ
Quốc tế IMF đưa ra một dự báo bi quan về tình hình kinh tế toàn cầu, thì
trên diễn đàn này ông nói đến việc Mỹ kim lên giá so với các ngoại tệ
khác và nhấn mạnh là thế giới sẽ gặp nhiều biến động về ngoại hối. Từ
mấy ngày qua, người ta lại thấy đồng Yen của Nhật sụt giá mạnh so với
tiền Mỹ và nhiều loại ngoại tệ khác. Nhật Bản có sản lượng kinh tế đứng
hàng thứ ba của thế giới sau Hoa Kỳ và Trung Quốc và là một quốc gia
xuất cảng rất mạnh. Khi tiền Nhật sụt giá như vậy thì ảnh hưởng sẽ ra
sao cho các nền kinh tế khác? Chúng tôi nêu vấn đề trong mục đích tìm
hiểu về những biến động ngoại hối mà ông đã nhắc đến từ tháng trước.
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Thưa rằng hôm Thứ Ba 17 vừa qua, Thủ tướng Nhật là ông Shinzo Abe
loan báo quyết định giải tán Quốc hội để tổ chức bầu cử sớm vào ngày 14
tháng tới. Việc ấy xảy ra sau khi có thống kê xác nhận kinh tế Nhật lại
bị suy trầm nữa trong Quý Ba vừa kết thúc vào Tháng Chín. Trước đó, vào
ngày 31 Tháng 10, Ngân hàng Trung ương Nhật cũng quyết định sẽ lại bơm
thêm tiền theo phương pháp gọi là "gia tăng mức lưu hoạt có hạn định"
hay "quantitative easing" gọi tắt là QE với số lượng cực lớn, dự trù là
tương đương với hơn 700 tỷ đô la mỗi năm, cho đến khi kinh tế ra khỏi
suy trầm hoặc lạm phát lên tới 2% thì mới ngưng.
-
Những biến cố dồn dập ấy giải thích vì sao tiền Nhật mất giá so với các
ngoại tệ khác như Mỹ kim hay đồng Euro của Âu Châu. Nếu nhìn trong dài
hạn thì việc đồng Yen mất giá là sự chuyển động dễ hiểu với hậu quả có
thể là một trận chiến về ngoại tệ giữa các nền kinh tế lớn trên thế giới
khiến nhiều quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, sẽ lâm vào khó khăn trong
các năm tới.
Việt Long:
Chúng ta lần lượt tìm hiểu hiện tượng này để phần nào thấy trước được
biến động ấy. Trước hết, xin ông nói về kinh tế Nhật và những lý do
khiến tiền Nhật sẽ còn mất giá nữa.
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Nhật Bản có vấn đề trường kỳ là nạn dân số sút giảm với tỷ trọng rất
lớn của người cao niên lớn tuổi – mà người ta gọi là nạn lão hóa dân số.
Lý do sâu xa này khiến mức tiêu thụ sút giảm và hàng họ mất giá. Trong
khi đó, vì mở ra làm ăn với toàn cầu, kinh tế Nhật vẫn có ưu điểm là nơi
đầu tư ổn định khiến thiên hạ trút tiền mua đồng Yen để tìm cơ hội kiếm
lời trên thị trường Nhật. Kết hợp hai chuyện 1) dân số và tiêu thụ giảm
khiến kinh tế bị nạn giảm phát – disinflation – và 2) nội tệ lên giá
dẫn tới hiện tượng giá cả trong nước sụt đều làm người dân càng tiết
kiệm và đình hoãn chi tiêu để chờ khi giá hạ hơn nữa. Hoàn cảnh éo le ấy
khiến các doanh nghiệp Nhật bị điêu đứng. Đầu tư giảm vì mức lời sụt
dẫn tới việc cắt lương và mở ra vòng xoáy lẩn quẩn: lương hạ càng đánh
sụt mức tiêu thụ và làm kinh tế đình trệ.
-
Sự chuyền động lớn này giải thích vì sao kinh tế Nhật bị suy trầm liên
tục từ hai thập niên đã qua. Thế rồi, chiếm đa số áp đảo sau cuộc bầu cử
vào cuối năm 2012, Chính quyền của Thủ tướng Abe mới áp dụng chánh sách
cải cách táo bạo, được gọi là Abenomics, nhắm vào ba hướng gọi là "ba
mũi tên". Thứ nhất là cố tình gây lạm phát qua biện pháp tăng chi để bơm
tiền vào kinh tế theo cái ý khuyến khích dân chúng hãy mua ngay đi kẻo
mai này hàng lên giá. Thứ hai là cải tiến môi trường kinh doanh để
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bằng cách giảm thuế doanh nghiệp, khi đó thuộc
loại cao nhất địa cầu. Thứ ba là cải tổ toàn bộ cơ chế kinh tế, xã hội
và chính trị Nhật để tìm sức bật mới.... Việc tăng chi chưa có kết quả
thì Ngân hàng Trung ương Nhật áp dụng biện pháp tăng mức lưu hoạt, tức
là bơm thêm tiền vào kinh tế, với một số lượng tương đối cao gấp đôi Hoa
Kỳ. Vì thế mà tiền Nhật mới mất giả. Khi đồng Yen mất giá thì hàng hóa
của Nhật lại trở thành rẻ hơn, tức là dễ xuất khẩu hơn, nên sẽ gây sức
ép cho các nền kinh tế sống nhờ xuất khẩu, thí dụ như kinh tế Đức và
Trung Quốc.
Việt Long: Xin
được hỏi ông một câu là vì biện pháp tăng chi ngân sách, Nhật Bản hiện
mắc nợ nhiều nhất, có thể lên tới 250% tổng sản lượng kinh tế. Thưa ông,
đấy không là một vấn đề sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Thưa rằng đấy là một vấn đề, nhất là khi ta nhớ đến khoản tiền lời
phải thanh toán, có khi chiếm một tỷ trọng lớn của các khoản chi ngân
sách như nếu phân lời đi vay mà lên tới 2% thì tiền lời sẽ lên tới 80%
của số tổng thu về thuế khóa.
-
Nhưng, có một thực tế văn hóa và tâm lý mà mình nên chú ý. Khoản công
trái rất cao của Nhật có hai đặc tính. Thứ nhất, tuyệt đại đa số là "nội
trái", được yết giá bằng đồng Yen, tức là "Nhật nợ Nhật" chứ không nợ
ngoại quốc. Thứ hai, chủ nợ của đa số các khoản nợ ấy lại là Ngân hàng
Trung ương Nhật, nghĩa là chủ nợ cũng là chủ nhà in giấy bạc và nhờ vậy
có quyền quyết định về phân lời cao thấp khi bơm tiền ra. Vì thế, thị
trường tài chánh Nhật vẫn ổn định và không bị giao động nặng - trong khi
dân Nhật bấm bụng bảo nhau cho nhà nước vay tiền trong tinh thần liên
đới gọi là "rau cháo có nhau". Khi Trung Quốc càng tỏ vẻ hung hăng đe
dọa quyền lợi của Nhật thì người dân Nhật lại càng chịu đựng và hậu thuẫn chính quyền để cố gắng vượt khó khăn kinh tế. Bây giờ ta mới nói đến chuyện ngoại hối là hối suất đồng Yen....
Việt Long: Như ông vừa trình bày thì có phải chăng là việc tiền Nhật mất giá là một hiện tượng có những lý do sâu xa và lâu dài hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Thưa là câu chuyện còn rắc rối hơn vậy nếu ta nhìn trong trường kỳ.
-
Khoảng 40 năm trước, có lúc tiền Nhật quả thật là quá rẻ mà nhiều người
đã quên mất rồi vì phải hơn 300 đồng Yen mới ăn một Mỹ kim. Khi kinh tế
toàn cầu bị tổng suy trầm vào các năm 2008-2009 và tiền Mỹ mất giá thì
là lúc đồng Yen lên giá, một đô la chưa ăn được 80 Yen vào năm 2011. Nó
chỉ bắt đầu sụt vào cuối năm 2012, rồi dập dình cả năm 2013 qua tới 2014
ở mức trăm đồng ăn một Mỹ kim. Bây giờ mới sụt mạnh và còn sụt nữa, có
thể tới 150 hay thậm chí 200 đồng vào một hai năm tới. Nhưng so với cái
giá 300 hay 350 vào những năm 1970-1975 thì vẫn chỉ bằng phân nửa mà
thôi.
-
Nhìn trong lâu dài thì điều ấy có nghĩa là gì? Là trong khoảng 40 năm,
có lúc tiền Nhật tăng giá gấp bốn so với đô la và doanh nghiệp Nhật bị
thất thế khi cạnh tranh với doanh nghiệp Hoa Kỳ hay với thiên hạ. Họ
phải tìm lợi thế bằng cách khác, chứ không nhờ tiền rẻ mà dễ bán hàng
hơn.
Việt Long: Bây giờ ta mới nhìn qua xứ khác. Thưa ông, đồng Yen mà mất giá như vậy thì hậu quả sẽ là thế nào với các nước khác?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin lấy một thí dụ nổi bật nhất là nền kinh tế đứng sau nước Nhật và cũng lệ thuộc mạnh vào xuất khẩu, đó là kinh tế Đức. Sau đó mới tới Nam Hàn và Trung Quốc.
-
Trong giai đoạn khó khăn sau vụ Tổng suy trầm thì doanh nghiệp Nhật bị
mất sức cạnh tranh so với doanh nghiệp Đức, coí thể là mất tới hơn một
phần ba trong các năm 2010 đến 2012. Thí dụ như tại Mỹ này thì ta thấy
xe hơi của Đức bán chạy hơn xe Nhật. Ngoài lợi thế từ chuyện tiền Nhật
lên giá, ta không quên rằng khi đó Trung Quốc dốc sức đầu tư vào khu vực
nội địa là xây dựng hạ tầng cơ sở như cầu đường và gia cư địa ốc hơn là
xuất khẩu. Nhờ vậy mà Đức trở thành đầu máy cứu vãn cả khối Euro. Bây
giờ, cả hai lợi thế ấy của kinh tế Đức đều hết vì tiền Nhật mất giá và
kinh tế Trung Quốc co cụm, mất khả năng nhập khẩu. Khi kinh tế Đức cũng
suy trầm như người ta bắt đầu thấy từ tháng trước thì cả Âu Châu sẽ lâm
nạn, nhất là khi các nước phải chấp hành chính sách cải tổ hệ thống ngân
hàng theo yêu cầu của Hội đồng Ổn định Tài chính như chúng ta đã trình
bày tuần trước.
Việt Long: Phải chăng vì vậy mà hồi nãy ông mới nói đến một trận chiến ngoại tệ giữa các quốc gia khi tiền Nhật sụt giá?
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Quả thật là Ngân hàng trung ương của Âu Châu có phản ứng bơm thêm
tiền khiến đồng Euro sẽ mất giá. Nam Hàn cũng vừa có động thái hạ lãi
suất, y như trường hợp của Trung Quốc. Ít ai nói ra cái chữ dễ sợ là một
trận chiến về ngoại tệ nhưng sự thật thì xứ nào cũng kích thích kinh tế
qua các biện pháp tiền tệ hay tín dụng với hậu quả là làm giảm tỷ giá
đồng bạc so với các ngoại tệ khác. Các nước Á châu hiện lâm vào hoàn
cảnh đó.
-
Khốn nỗi, người ta không thể xuất khẩu lên cung trăng để phục hồi kinh
tế mà phải bán hàng cho nhau. Khi kinh tế trì trệ thì các nước nhập khẩu
ít hơn và xứ nào sống nhờ xuất khẩu sẽ bị hại nhất vì dù có làm giảm
giá đồng bạc thì cũng chưa thoát hiểm mà còn phải trả hóa đơn cao hơn
khi mua hàng xứ khác với đồng tiền mất giá. Đấy cũng là bài toán nan
giải cho ngân hàng trung ương của Việt Nam.
-
Một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách cứ
tưởng như bất ngờ và ngoài khối công nghiệp hóa, có chín nền kinh tế lớn
bị nhiều bất trắc nhất, đó là Trung Quốc, Liên bang Nga, Brazil, Chile,
Argentina, Ấn Độ, Indonesia, Turkey và Nam Phi. Ngoại lệ duy nhất vẫn
là Hoa Kỳ dù tiền Mỹ lên giá, và hôm qua Thứ Ba 25, bộ Thương mại Hoa Kỳ
đã điều chỉnh đà tăng trưởng theo hướng cao hơn.
Việt Long:
Ông vừa nói đến sự kiện là "một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy
cơ suy sụp nặng một cách bất ngờ". Cách đây hơn một năm, trong dịp phân
tích Hội nghị Ban chấp hành Trung ương kỳ bảy tại Hà Nội, ông có nói đến
hiện tượng mà các nhà vật lý gọi là "cát truồi", nghĩa là một cách chậm
rãi người ta cứ lặng lẽ tích lũy thêm những yếu tố thất quân bình cho
tới khi có sự sụp đổ bất ngờ. Phải chăng, chúng ta đang chứng kiến một
hiện tượng đó khi các nước đều cố hạ giá đồng bạc để thoát hiểm mà rốt
cuộc lại kéo nhau vào khủng hoảng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Tôi nghĩ rằng cái gọi là trật tự kinh tế chính trị của các nước là
điều gì đó vô cùng phức tạp vì là kết quả của nhiều động thái khác nhau.
-
Về trường hợp Việt Nam thì tờ World Affairs vừa có bài bút ký khá dài
của nhà báo Michael Totten với đề tựa rất lạ, đó là "Phải chăng đã đến
ngày tàn của đảng Cộng sản Việt Nam"? Ra khỏi chuyện Việt Nam thì ta nhớ
tới kế hoạch Nga bán năng lượng cho Tầu. Họ tưởng khôn khi nhận tiền
bằng đồng Nguyên của Tầu thay vì đô la Mỹ. Nào ngờ dầu thô sụt giá và
đồng Nguyên sẽ còn mất giá nữa trong trận chiến ngoại hối sắp tới trong
khi đô la lên giá. Kết quả là Nga thu về
đồng bạc mất giá trong khi vẫn phải trang trải các khoản nhập khẩu khác
bằng tiền Mỹ. Tức là Tổng thống Vladimir Putin có thể hoành hành tại
Ukraine và cùng Trung Quốc thì coi thường Hoa Kỳ chứ đang bị thiệt cả
hai đầu. Những chuyện như vậy đang chậm rãi xảy ra trước mắt chúng ta mà
ít ai chịu để ý!
Việt Long: Xin cảm tạ ông Nghĩa về lời cảnh báo này.
Giá dầu giảm mạnh
Bài này khá dài nhưng nội dung rất lý thú:
27/11/2014
Tại sao giá xăng dầu giảm?
Vũ khí chiến lược dầu hỏa Nguyễn Đình Phùng
Nhưng
Trung Hoa không thể so sánh với Hoa Kỳ về phương diện tiến bộ kỹ thuật,
chỉ biết học lén, ăn cắp và lường gạt các nhà đầu tư ngoại quốc. Nên hiện
nay kinh tế Trung Hoa đã chậm lại và nhiều phần sẽ đi vào suy thoái nặng
trong tương lai.
Tóm lại Hoa Kỳ vẫn là quốc gia hàng đầu của thế giới với những phát minh và tiến bộ kỹ thuật mới mẻ. Chỉ với một phương cách đào dầu tân tiến, Hoa Kỳ đã làm thay đổi hẳn những thế tính toán chiến lược địa dư trên toàn cầu. Tất cả nhờ vào vũ khí dầu hỏa nay đã trở thành ưu thế chiến lược cho Hoa Kỳ để chống lại các kẻ thù cũ như Iran, Nga. Cũng như đối với kẻ thù mới trong tương lai chính là Trung Hoa vậy! – N.Đ.P.
Vâng, Hoa Kỳ
trong hiện tại và tương lai vẫn là siêu cường số 1, đó là một may mắn cho
một nước như Việt Nam đã đến lúc phải tìm mọi cách trục ra khỏi cơ thể
kiệt quệ của mình loại virus nguy hiểm bậc nhất thế giới ở thế kỷ XX Là
CNCS với hai chiếc vòi bạo lực và chuyên chính đang cắm sâu vào cốt tủy mình –
và trục ngay từ chính cái nguồn cung cấp virus hiểm ác nhất từ hơn 100 năm
qua: Đảng CS TQ, sau này trở thành tên đế quốc Trung Cộng.
Bauxite Việt
Nam
|
Trong vòng ba năm nay, những tính toán về thế chiến lược địa dư
toàn cầu đã bị một vũ khí chiến lược mới của Hoa Kỳ làm thay đổi hẳn cục diện.
Đó là vũ khí dầu hỏa, một thứ vũ khí trước giờ làm Hoa Kỳ khốn đốn và bị lệ
thuộc vào những quốc gia không mấy gì thân thiện với Hoa Kỳ nắm giữ, như những
xứ vùng Trung Đông, Venezuela và Nga. Nhưng thế cờ hiện nay đã bị lật ngược và
Hoa Kỳ đã nắm thượng phong để có thể dùng dầu hỏa như một vũ khí chiến lược cho
những tính toán mới cho chính trị địa dư toàn cầu.
Điều này xảy ra được hoàn toàn nhờ vào một kỹ thuật mới về đào
dầu. Đây là phương cách tân tiến nhất dùng vệ tinh satellite để điều khiển mũi
khoan dầu, đào sâu xuống nhiều dặm dưới lòng đất rồi tùy theo vị trí có thể quay
ngang và đào bên cạnh gọi là horizontal drilling, tiến tới mục tiêu chính xác có
thể chỉ nhỏ như một chiếc bánh xe! Trước kia việc đào dầu thường chỉ dùng những
dữ kiện do địa chấn đem lại để tìm mỏ dầu và đào thử hàng chục lần mới được một
lần trúng. Những lần đào hụt gọi là dry holes, tốn tiền nhiều và mất nhiều thì
giờ để đào trúng mỏ dầu. Với những dữ kiện về địa chất do satellite technology
và cách đào ngang horizontal drilling, việc đào hụt gặp dry holes không xảy ra
nữa!
Nhưng việc sản xuất dầu hiện nay tại Hoa Kỳ thay đổi nhiều hơn cả
là do việc lấy dầu từ đá gọi là shale oil. Dưới đáy của những mỏ dầu đã bơm ra
gần cạn từ đầu thế kỷ 20 đến giờ, là những mỏ đá shale oil chứa dầu nằm lẫn
trong đá. Dầu hỏa nằm trong đá này trước giờ không lấy ra được vì không chảy và
không bơm lên được, gọi là dầu chặt, tight oils. Dung lượng của những mỏ dầu nằm
trong shale oil còn nhiều hơn những mỏ dầu bơm lên dễ dàng trước kia, nhưng nay
đã bơm cạn.
Kỹ thuật mới hiện tại là dùng cách đào như diễn tả trong đoạn
trước và đào ngang horizontal drilling để tiến sâu vào những mỏ đá shale oil.
Sau đó hàng ngàn gallons nước được bơm thẳng vào những vết nứt của mỏ đá shale
oil này với áp suất cực mạnh. Dầu và khí đốt nằm trong đá được hút ra sau khi
được nước bơm vào giải tỏa và được bơm thẳng lên trên mặt đất. Kỹ thuật này gọi
là hydraulic fracturing, thường gọi tắt là fracking và hiện đang được áp dụng
tại ba vùng có mỏ dầu shale oil lớn nhất Hoa Kỳ. Đó là vùng Bakken tại tiểu bang
North Dakota, vùng Permian Basin gần Midland, Texas và vùng Eagle Ford tại phía
Nam Texas.
Nhờ vào số lượng dầu bơm từ ba vùng này với kỹ thuật mới, mức sản
xuất dầu của Hoa Kỳ đã tăng vọt từ 5 năm trở lại, nhưng tăng nhiều nhất là ba
năm nay. Trong thập niên 60’s mức sản xuất dầu của Hoa Kỳ lên đến mức cao nhất
và sau đó đi xuống dần. Năm 1970 là mức tột đỉnh với sản xuất dầu nội địa là 9.6
triệu thùng dầu một ngày. Sau đó các mỏ dầu nhất là tại vùng Texas cạn dần, cho
đến năm 2008 chỉ còn sản xuất được 5 triệu thùng dầu một ngày. Nhưng từ năm 2011
đến 2014, mức sản xuất dầu hỏa nhờ vào kỹ thuật fracking đã làm tăng lên được
46%, chưa bao giờ tăng nhanh lên được như vậy kể từ giai đoạn 1921-1924, đúng 90
năm trước, lúc mới bắt đầu việc đào dầu tại Hoa Kỳ tạo ra các nhà tỷ phú như
Rockefeller thời đó!
Năm 2013 mức sản xuất dầu của Hoa Kỳ là 7.5 triệu thùng dầu một
ngày, với ước tính cho năm 2014 sẽ là 8.3 triệu thùng dầu sản xuất mỗi ngày. Với
đà sản xuất này, theo cơ quan năng lượng quốc tế International Energy Agency,
đến năm 2020, Hoa Kỳ sẽ qua mặt Saudi Arabia để sản xuất lên đến mức 11.6 triệu
thùng dầu một ngày!
Như vậy điều rõ ràng nhất là Hoa Kỳ sẽ không cần đến Saudi Arabia
như trước nữa! Xứ này từ trước đến nay nắm giữ quyền lực về dầu hỏa vì được coi
là swing producer, tức có khả năng để ấn định giá cả cho dầu hỏa. Với mức bơm
dầu nhiều nhất thế giới, Saudi Arabia chỉ việc bơm nhiều hơn hay ít hơn để xác
định giá cả cho dầu hỏa và Hoa Kỳ lệ thuộc vào xứ này trên phương diện chiến
lược. Như việc phải bảo vệ cho Saudi Arabia với các căn cứ quân sự tại đây cũng
như đặt Đệ Ngũ hạm đội tại vùng Bahrain và tuần tiễu trên Vùng Vịnh để giữ cho
đường thủy chở dầu được lưu thông.
Trong chiến lược ngăn chặn Iran không cho quốc gia này chế tạo bom
nguyên tử, ngoài việc bảo vệ Do Thái, Hoa Kỳ còn bị áp lực của Saudi Arabia. Lý
do là hai xứ Iran và Saudi Arabia là hai kẻ thù không đội trời chung. Iran được
coi như cầm đầu các xứ theo Shiite, trong khi Saudi Arabia là quán quân cho phe
Sunni của Hồi Giáo. Thế chiến lược địa dư hiện nay tại vùng Trung Đông có thể
coi như một cuộc tranh chấp đẫm máu giữa hai giáo phái Sunni và Shiite của Hồi
giáo. Hiện nay cuộc nội chiến tại Syria đã biến thể để thành chiến tranh giữa
Shiite với phe của Assad và Iran ủng hộ, với phe Sunni của đa số dân Syria được
Saudi Arabia và các vương quốc vùng Vịnh yểm trợ. Đây chính là lý do Saudi
Arabia đã bất mãn đến cùng cực khi Tổng thống Obama chùn chân không chịu cho tấn
công Assad năm ngoái sau vụ thảm sát dân lành bằng vũ khí hóa học. Quốc vương
Abdullah của Saudi Arabia đã coi đây là một sự phản thùng của Obama, không chịu
tiến tới trong việc yểm trợ phe Sunni để lật đổ Assad như Saudi Arabia đã mong
muốn.
Tuy nhiên việc Obama trở mặt vào phút chót đối với Saudi Arabia đã
cho thấy một điều rõ ràng. Là ảnh hưởng của Saudi Arabia đối với Hoa Kỳ đã không
còn được như trước. Obama đã tính toán là vùng Trung Đông không còn giữ vai trò
quan trọng như khi Hoa Kỳ bị lệ thuộc vào Saudi Arabia về dầu hỏa và cần phải
giữ cho Saudi Arabia hài lòng bằng mọi giá, kể cả việc gây ra thêm một cuộc
chiến tranh khác như tại Syria. Với mức dầu hỏa sản xuất tại Hoa Kỳ chỉ trong
thời gian ngắn sắp đến sẽ làm Hoa Kỳ độc lập về dầu hỏa, Saudi Arabia đã mất đi
thế đòn bẩy để áp lực Hoa Kỳ bằng dầu. Nên việc Obama trở mặt với vua Abdullah
của Saudi Arabia trong vụ Syria vừa qua có thể coi như bước đầu trong thế chiến
lược thay đổi của Hoa Kỳ tại vùng Trung Đông, khi Hoa Kỳ đã nắm được thế thượng
phong với vũ khí chiến lược dầu hỏa.
Cũng thế, lý do để Iran phải chịu vào bàn thương thuyết với Hoa Kỳ
về việc tinh luyện nhiên liệu uranium cho bom nguyên tử, cũng do Hoa Kỳ đã trên
chân về vũ khí dầu hỏa. Iran trước giờ đe dọa sẽ cho phong tỏa eo biển Hormuz để
chặn đường biển chở dầu hỏa từ các xứ vùng Vịnh, kể cả Saudi Arabia. Nhưng với
Hoa Kỳ gia tăng mức sản xuất dầu do fracking, thế đòn bẫy này của Iran không còn
nữa. Hoa Kỳ trong những năm của thời George Bush hay Clinton đã không thể dùng
những biện pháp chế tài kinh tế khắt khe với Iran chỉ vì sợ Iran làm thật để
phong tỏa eo biển Hormuz và làm rối loạn kinh tế toàn cầu khi giá dầu lên vài
trăm Mỹ Kim một thùng.
Nhưng khi áp lực đòn bẫy này của Iran không còn nữa, Obama đã có
thể cho áp dụng các biện pháp chế tài kinh tế khắt khe nhất mà không sợ Iran
phản ứng lại. Điều làm cho Iran phải qui hàng và chịu vào bàn thương thuyết
chính là đòn cô lập Iran về ngân hàng và tín dụng. Các ngân hàng trên toàn cầu
không thể giao dịch với Iran nên xứ này bị loại ra khỏi hệ thống ngân hàng và
tín dụng, không thể bán dầu lấy dollar được, chỉ có thể trao đổi hàng hóa với
Trung Hoa, Ấn Độ… nên đã bị thiệt hại nặng và sụp đổ kinh tế. Như thế một khi
Hoa Kỳ chiếm thế thượng phong trong vũ khí chiến lược dầu hỏa, các bài tính
chiến lược của vùng Trung Đông đã phải thay đổi hết và đem lại những giải quyết
cho vấn đề Iran [vốn] nhức đầu cho Hoa Kỳ hàng bao nhiêu năm
nay.
Trong cuộc khủng hoảng mới nhất hiện nay tại Ukraine, vũ khí chiến
lược dầu hỏa và khí đốt cũng đã trở thành thế lực mạnh nhất cho các tính toán
của Putin và Obama trong việc đối chọi giữa Nga và thế giới Tây Phương hiện nay.
Hoa Kỳ và Âu Châu gần như đã chấp nhận cho Putin chiếm Crimea, nhưng muốn ngăn
chặn những tham vọng kế tiếp của Putin là chiếm luôn miền phía Đông và Nam
Ukraine, phân chia xứ này ra làm hai, nửa theo Nga, nửa theo Tây Âu. Putin có
thế đòn bẫy là cung cấp khí đốt cho Âu Châu bằng các ống dẫn khí đốt này chạy
ngang qua lãnh thổ Ukraine. Nếu Hoa Kỳ và Tây Âu làm dữ, nhất định trừng phạt
Nga nặng nề hơn bằng các biện pháp kinh tế và loại Nga ra khỏi hệ thống ngân
hàng và tín dụng, Putin có thể phản ứng lại bằng cách cho khóa các ống dẫn khí
đốt này và 60% nhà cửa của Tây Âu sẽ lạnh cóng vì thiếu hơi
đốt!
Ngoài ra Nga cũng là xứ sản xuất dầu và cung cấp cho Âu Châu nên
ngoài khí đốt, dầu hỏa sẽ bị khan hiếm với giá tăng vọt cho dân chúng Âu Châu.
Hoa Kỳ có thể cho xuất cảng hơi đốt sang Âu Châu bằng cách cho đông lạnh
liquefied natural gas và dùng tầu tanker chở băng ngang qua Đại Tây Dương cung
cấp khí đốt cho Âu Châu. Nhưng những cơ sở để làm đông lạnh hơi đốt tại Hoa Kỳ
và các cơ cấu hạ tầng chưa có sẵn tại Hoa Kỳ và sẽ mất hai ba năm để có thể thay
thế toàn bộ lượng khí đốt Âu Châu nhập cảng từ Nga.
Cũng thế tuy Hoa Kỳ trong tương lai có thể dư thừa dầu hỏa để xuất
cảng sang Âu Châu. Nhưng hiện nay Hoa Kỳ vẫn còn lệnh cấm xuất cảng dầu do Quốc
hội Hoa Kỳ ban hành luật này từ đầu thập niên 70’s khi dân chúng Hoa Kỳ phải xếp
hàng để mua xăng! Muốn xuất cảng dầu, Hoa Kỳ phải bỏ luật cấm này. Nhưng hiện
vẫn còn bị kỹ nghệ lọc dầu chống đối và chưa ra luật được! Lý do là các nhà máy
lọc dầu hưởng lợi do việc mua dầu sản xuất tại Hoa Kỳ giá rẻ, cho lọc dầu và bán
với giá của thị trường toàn cầu cao hơn nhiều. Nếu bỏ luật cấm xuất cảng dầu,
các nhà máy lọc dầu sẽ phải mua dầu sản xuất nội địa với giá cao hơn nên không
còn lời nữa! Vì sự chống đối của các kỹ nghệ lọc dầu, đạo luật cấm xuất cảng dầu
vẫn chưa bỏ được!
Tuy nhiên nếu tình hình tại Ukraine trở thành tồi tệ hơn và Putin
cho chiếm thêm đất xứ này, dĩ nhiên Quốc hội Hoa Kỳ sẽ phải bỏ luật cấm xuất
cảng làm lợi cho thiểu số lọc dầu để bảo vệ cho chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ
chống lại Nga!
Tuy vậy chỉ cần đe dọa là Hoa Kỳ sẽ thực hiện việc cung cấp khí
đốt đông lạnh cho Âu Châu và sẽ cho xuất cảng dầu hỏa sang, dù phải mất hai ba
năm nữa, cũng đủ để cho Putin phải chùn chân và tính toán lại nếu không muốn
thấy kinh tế Nga đi vào chỗ sụp đổ như Iran hiện nay.
Đây là thế đòn bẫy quan trọng vì Nga hiện nay có thể được coi như
một thứ Saudi Arabia thứ hai, gần như hoàn toàn chỉ sống bằng việc xuất cảng dầu
hỏa và khí đốt. Kinh tế của Nga được coi là lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn lợi
thiên nhiên. Putin có mua chuộc được giới quân sự và được nhiều nhóm dân chúng
ủng hộ, thực ra cũng nhờ vào các nguồn lợi do xuất cảng năng lượng này. Nên khi
Hoa Kỳ có lợi thế hơn về vũ khí chiến lược dầu hỏa, thế đòn bẫy này của Nga đã
giảm đi nhiều hiệu quả.
Và trong sự tính toán của Putin hiện nay, liệu việc chiếm thêm đất
của Ukraine sẽ phải trả giá quá đắt do việc Hoa Kỳ và Âu Châu loại Nga ra khỏi
hệ thống ngân hàng và tín dụng, cũng như trong hai ba năm đến sẽ ngưng mua dầu
hỏa và khí đốt từ Nga. Lúc đó chắc chắn kinh tế Nga sẽ xuống dốc không phanh và
sụp đổ dễ dàng. Putin dĩ nhiên sẽ tính toán lợi hại với các giả sử và bài tính
khác nhau để chọn con đường đi tới trong vài tháng sắp đến. Việc Putin gọi điện
thoại thẳng nói chuyện với Obama trong hai tiếng đồng hồ và cho Ngoại trưởng
Lavrov gặp Ngoại trưởng John Kerry tuần qua là dấu hiệu Putin có thể cũng đã
chùn chân và lạnh cẳng trước những đe dọa của Hoa Kỳ về năng lượng và phải tính
lại hết các bài tính chiến lược mới!
Như vậy chỉ với một tiến bộ kỹ thuật mới về đào dầu, Hoa Kỳ đã làm
thay đổi hẳn cục diện cho các thế chiến lược và chính trị địa dư của toàn cầu.
Chỉ trong vòng ba năm, Hoa Kỳ đã chiếm thế thượng phong đối với vũ khí chiến
lược dầu hỏa và nhờ đó thay đổi hẳn các tính toán cho vùng Trung Đông cũng như
cho Âu Châu hiện tại. Kẻ thù tương lai và nguy hiểm nhất cho Hoa Kỳ hiện nay là
Trung Hoa cũng sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ vì ưu thế mới này của Hoa Kỳ đối với
vấn đề năng lượng.
Điều đầu tiên là những kỹ nghệ sản xuất về solar panels, chế các
tấm bảng đổi ánh sáng mặt trời ra điện của Trung Hoa hiện nay đã bắt đầu bị phá
sản. Trong mấy năm trước, Trung Hoa đã chiếm đến 80% thị trường về kỹ nghệ này.
Nhưng với giá dầu đi xuống, mức sản xuất dầu nội địa Hoa Kỳ đi lên, các kỹ nghệ
về năng lượng mặt trời đều bị phá sản hết! Và Trung Hoa đầu tư nặng về các ngành
này sẽ bị ảnh hưởng nặng! Đây chỉ là một điểm nhỏ trong những chiều hướng thay
đổi lớn trên toàn cầu do các tiến bộ về kỹ thuật đem lại.
Sự phát triển nhanh chóng về kinh tế của Trung Hoa trong vài thập
niên qua, thực sự chỉ do Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật sai lầm đầu tư quá trớn vào
Trung Hoa và thiếu suy nghĩ cho các hậu quả tương lai. Nhưng Trung Hoa không thể
so sánh với Hoa Kỳ về phương diện tiến bộ kỹ thuật, chỉ biết học lén, ăn cắp và
lường gạt các nhà đầu tư ngoại quốc. Nên hiện nay kinh tế Trung Hoa đã chậm lại
và nhiều phần sẽ đi vào suy thoái nặng trong tương lai.
Tóm lại Hoa Kỳ vẫn là quốc gia hàng đầu của thế giới với những
phát minh và tiến bộ kỹ thuật mới mẻ. Chỉ với một phương cách đào dầu tân tiến,
Hoa Kỳ đã làm thay đổi hẳn những thế tính toán chiến lược địa dư trên toàn cầu.
Tất cả nhờ vào vũ khí dầu hỏa nay đã trở thành ưu thế chiến lược cho Hoa Kỳ để
chống lại các kẻ thù cũ như Iran, Nga. Cũng như đối với kẻ thù mới trong tương
lai chính là Trung Hoa vậy!
N.Đ.P.
Được đăng bởi bauxitevn vào
lúc 07:25
Comments
Post a Comment