Đêm Giáng Sinh 1978,
CSVN Tấn Công Khmer Đỏ
Mường Giang
Nam
Vang thất thủ trước Sài Gòn mười ba ngày (17-4-1975). Ðể chiếm thủ đô,
Polpot đã ra lệnh cho Khmer đỏ, pháo kích bừa bãi dã man vào thành phố,
gây thương vong nhiều người vô tội, tại các khu vực đông dân cư, làm tê
liệt phi trường Pochentung. Vì vậy Ðại sứ Mỹ là John Gunther và tổng
thống Lonnol (kẻ đã ra lệnh cáp duồng hằng vạn Việt Kiều tại Kampuchia
năm 1970), nếu không nhanh chân bò lên trực thăng vù ra biển, chắc cũng
đã bị Polpot phanh thây như triêu người dân Miên khác bị kẹt lại.
Ngay
khi chiếm được nước, các lãnh tụ Miên đỏ đã bất chấp luân thường đạo lý
, ra lệnh tàn sát gần hết đồng bào mình, một cách rùng rợn. Hành động
trên đã làm cho thế giới văn minh của nhân loại, dù ở tận phương trời
góc biển, đã phải xanh mặt, tím ruột, khi được đối diện với mặt thật của
những hung thần cọng sản quốc tế, qua hình ảnh của thảm kịch ‘ The
Killing Fields (Những cảnh đồng xác người ). Ngoài ra theo lệnh chủ mới
là Tàu Cộng, Polpot trả ơn Việt Cộng, chủ củ cũng là kẻ đã cưu mang
chúng từ khi còn trong trứng nước, tới hồi lớn mạnh, bằng cách tấn công
biên giới, biển đảo, để mong chiếm lại miền Thủy Chân Lạp của 300 về
trước, đã bị VN tới khai thác khi bị bỏ hoang.
Polpot
cũng đã mở màn cho cuộc chiến Ðông Dương lần thứ III (1975-1990), bằng
lệnh khai hỏa vào chiếc tàu buôn của Mỹ tên Mayaguez, trong lúc đang bỏ
neo ngoài khơi hai đảo Kohtang và Poulo Wai (Ðảo Trọc), nguyên là lãnh
thổ của VN, nằm trong vịnh Phú Quốc, bị Khmer đó chiếm sau tháng 4-1975.
Ngay
khi bị lực lượng người Nhái của Polpot tấn công, thuyền trưởng chiếc
tàu buôn trên, đã đánh khẩn điện về nước để cầu cứu và đã được chính
Tổng Thống Mỹ lúc đó là Ford, ra lệnh cho TQLC cùng Không quân, đang ở
căn cứ Utapao (Thái Lan), đến giải thoát họ. Nhưng Polpot khôn ranh, đã
ra lệnh cho kéo chiếc tàu trên cùng thủy thủ đoàn 37 người, về giam tại
hải cảng Kompong Som, trước khi TQLC Mỹ dùng trực thăng, đổ bộ lên đảo
Poulo Wai, sáng ngày 15-5-1975.
Một
trận ác chiến sau đó, đã xảy ra trên đảo Kohtang, giữa TQLC và quân
Khmer đỏ. Kết quả có hai trực thăng Mỹ chở quân bi bắn hạ và ngay cả
TQLC cũng bị vây khổn trong trận địa. Ðể giải vây quân tiếp viện cũng
như chiếc tàu buôn đang bị bắt, lần nữa TT Ford ra lệnh cho KQ tại Thái
Lan, oanh tạc Nam Vang và hải cảng Kompong Som, phá hủy nhiều máy bay
Mig của Trung Cộng vừa viện trợ, đồng thời đốt rụi nhà máy lọc dầu duy
nhất của Kampuchia tại hải cảng Sihanouk. Thấy Hoa Kỳ làm dữ quá, Polpot
giả vờ đổ thừa cho địa phương vì phương tiện truyền tin eo hẹp, nên
không nhận được lệnh Trung Ương, rồi ra lệnh thả chiếc tàu buôn cùng
thủy thủ. Ngoài ra TQLC cũng được lệnh rút khỏi đảo Kohtang, bỏ lại xác
hai chiếc trực thăng. Trong trận chiến này, có 15 binh sĩ Mỹ tử thương
trong khi đụng độ.
Vụ
tàu buôn Mỹ Mayaguez bị tấn công và 15 TQLC bỏ mạng, trên đường hồi
hương, được Ford cùng báo chí giữ kín. Người Mỹ muốn gì khi im lặng hay
thật sự đã nhìn thấy trước, cảnh huynh đệ tương tàn trong các đảng cọng
sản đệ tam quốc tế. Sau này qua các tài liệu đã giải mật, được Ford giải
thích : ‘ Ðó
là sự châm ngòi cho ý nghĩa mới. Một cơ hội để cho các đảng cộng sản
anh em tự thanh toán lẫn nhau, dọn đường cho tư bản trở lại Ðông Dương
và Ðông Nam Á
‘.Cuối cùng Hoa Kỳ đã tiên đoán đúng. Từ thập niên 90 về sau, chẳng
những các nước Ðông Dương, mà ngay cả Trung Cộng, Liên Bang Nga lẫn Bắc
Hàn, đều trải thảm đỏ, mở cửa rộng, để quỳ đón Âu Mỹ, Nhật, Triều Tiên..
đem đô la vào cứu đảng.
1-POLPOT THEO TRUNG CỘNG, PHẢN VIỆT CỘNG :
Theo
các tài liệu hiện hành, ta biết đảng cọng sản Cam Bốt được thành lập
vào tháng 9-1951, qua danh xưng ‘ Ðảng Nhân Dân Cách mạng Khmer ố Khmer
People ‘s Revolutionary Party ‘ thường viết tắt là KPRP. Polpot tên thật
là Saloth Sar, người Việt gốc Miên. Trong thời gian du học tại Pháp,
qua sự móc nối của một đảng viên VC tên Phạm văn Bá, từng hoạt đông tại
Nam Vang, nên Polpot gia nhập đảng KPRP năm 1953. Hiệp định về Ðông
Dương, ký tại Geneve 1954, ra lệnh cho đảng này giải tán. Do đó hơn 2000
đảng viên KPRP phải tập kết tới Hà Nội. Chính sự tan rã của đảng cọng
sản Miên, là nguyên cớ sau này để Polpot vin vào lên án VC đã bán đứng
đồng chí, khi cuôc chống Pháp của hai đảng đã đạt được thành công.
Tuy
nhiên dù bị cấm đoán, cọng sản Miên vẫn âm thầm hoạt động lén lút, dưới
sự lãnh đạo của Shieu Hang và Ton Samouth. Từ tháng 7-1962, Polpot mới
được cử làm Bí thư đảng, hoạt động chung với Ieng Sary và Son Sen. Bắt
đầu từ năm 1965 trở về sau, Mỹ ào ạt đổ quân vào Nam VN, làm cường độ
chiến tranh càng lúc càng gia tăng. Tai Miên, ngoài mặt Sihanouk mang
chiêu bài trung lập, nhưng đã gần như công khai để cọng sản Bắc Việt sử
dụng lãnh thổ xứ chùa Tháp, làm căn cứ điạ dưỡng quân, đồn trú, lánh nạn
và trực tiếp nhận viện trợ của khối cọng sản, tại hải cảng
Sihanoukville. Mục đích cũng chỉ để trục lợi mà thôi. Trong giai đoạn
này, Bắc Việt đã lập một đơn vị đặc nhiệm, gọi là P36 chuyên huấn luyện
bộ đội Khmer đó của Polpot, cũng như ngăn cản không cho đụng chạm tới
quân đội Hoàng gia Cam Bốt của ông Hoàng Sihanouk.
Năm
1970, lợi dụng Sihanouk xuất ngọai, tướng Lonnol và Hoàng thân Sirik
Matak làm cuộc đảo chánh và đón quân Mỹ vào. Nhờ vậy gần như tất cả các
căn cứ địa của bộ đội Bắc Việt và Khmer đỏ, trú đóng trên đất Miên bị
tiêu diệt bởi Mỹ giội bom và các cuộc hành quân Toàn Thắng, của liên
quân Hoa Kỳ-VNCH.
Trước
nguy cơ bị tiêu diệt, lần nữa hai đảng cọng sản anh em lại hợp tác để
sống còn. Rồi lợi dụng tiếng tăm của Sihanouk, Bắc Việt dụ dỗ tuyên
truyền dân chúng Miên gia nhập bộ đội, giúp cho lực lượng Khmer đỏ lên
tới 30.000 quân. Tất cả đều do Hà Nội cưu mang, từ huấn luyện cho tới
trang bị và tiếp tế. Trong những lần đụng độ với quân của Lonnol, bộ đội
Bắc Việt luôn đi đầu hứng đạn, còn lính của Polpot thi đi sau, nếu
thắng thì đòi chia chiến lợi phẩm. Ngược lại khi bộ đội Bắc Việt thua
trận, quân Polpot lập tức bỏ chạy hay ác hơn là bắn lén sau lưng. Tình
đồng chí của cọng sản là vậy đó.
Năm
1972, Polpot nghe lời dụ của cáo già Kissinger hợp mật. Nhưng đây chỉ
là kế ly gian của Mỹ, nhằm gây rạn nứt giữa hai đảng cọng sản. Vì sau đó
Mỹ đã oanh tạc từ 257-465 tấn bom xuống tàn phá gần hết các căn cứ của
quân Khmer đỏ, rồi phao tin là Hà Nội đã chỉ điểm. Ðòn chí tử này đã
khiến Polpot trở mặt chống Bắc Việt từ đó nhưng ngoài mặt thì giả vờ
liên minh hợp tác.
Tháng
8-1974 Polpot hạ sát 71 đảng viên cong sản Miên thân Hà Nội. Tiếp theo
vào tháng 9 cùng năm có 100 người khác cùng chung số phận. Nhưng trong
số này có 2 người còn sống sót tên Hemsamin và Yospor trốn thoát tới Bắc
Việt. Chưa hết, có 2 phóng viên Bắc Việt bị giết tại Kampong Chàm và
trọn một phái đoàn của MTGPMN, từ Mỹ Tho vào tham quan vùng xôi đậu
trong Ðồng Tháp Mười nhưng lại lạc qua Miên, bị Khmer đỏ phục kích hạ
sát. Thêm vào đó, đã có hàng vạn Việt kiều bị Khmer đỏ cáp Duồng. Tất cả
Hà Nội đều biết, nhưng vẫn im lặng, đã vậy Bắc Bộ Phủ còn nỗ lực giúp
cho Polpot chiếm được Kampuchia và Nam Vang vào ngày 17-4-1975. Ngoài ra
để che dấu sự thật, mục đích phỉnh gạt đồng bào, lừa bịp dư luận thế
giới, hằng ngày hai đảng vẫn ra rả lập đi lập lại những từ ngữ hào
nhoáng tuyên truyền như ‘ Ðoàn kết vĩ đại, tình hữu nghi anh em cách
mạng Cam Bốt-Việt Nam bất diệt.. ’ ’ ’ Cuối cùng ngày 12-4-1975, Ieng
Sary chính thức yêu cầu Trung Cộng, trực tiếp viện trợ cho Kampuchia mà
không cần VN trung gian như từ trước.
Ðể
mở màn cho bi kịch máu đã tới lúc chín mùi, ngày 4-5-1975, Polpot ra
lệnh tấn công hai đảo Thổ Châu và Phú Quốc. Quân Khmer đỏ chém giết dã
man hằng ngàn đồng bào vô tội, cướp của đốt nhà và trước khi rút, đã bắt
500 người VN, đa số là đàn bà con gái. Ðể trả đủa, ngày 18-5-1975, VC
huy động hải lục không quân, tái chiếm hai đảo trên và đảo Pulau Wai mà
Miên đã chiếm từ trước, bắt giữ 300 tù binh. Thấy VN làm dữ, Polpot lại
xuống giọng. Rồi thì màn kịch đồng chí đồng đảng, được hai nước tô son
trét phấn trở lại hằng ngày trên đài, trên báo, khi Mười Cúc-Nguyễn Văn
Linh dẫn phái đoàn sang Cam Bốt thăm viếng xã giao ngày 2-6-1975. Ngược
lại, Polpot cùng Ieng Sary và Noun Chen, trên đường sang chầu Trung
Cộng, đã ghé Hà Nội để đáp lễ vào ngày 12-6-1975.
Tại
Trung Cộng, tình hình nội bộ đảng cọng sản biến chuyển mạnh, sau khi
Mao Trạch Ðông chết. Ðêm 6-10-1976, Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh và
Uông Ðông Hưng.. ra lệnh cho đơn vị đặc nhiệm tại Bắc Kinh 2341, bất
thần tấn công, bắt trọn ổ Tứ Nhân Bang gồm Giang Thanh, Trương Xuân
Kiều, Vương Hồng Văn và Diệu Văn Nguyên.. rồi tôn Ðặng Tiểu Bình lên
ngôi hoàng đế đỏ, dù Hoa Quốc Phong vẫn là Tổng Bí Thư đảng bù nhìn.
Ðặng công khai ủng hộ Polpot, bất chấp dư luận thế giới đang nguyền rủa
tên sát nhân và khmer đỏ. Từ đó qua chỗ dựa chắc chắn, Polpot theo hẳn
Trung Cộng, cắt đứt liên hệ với VC. Về nước, Polpot ra lệnh hạ sát hơn
10.000 đảng viên, tại Trung tâm thẩm vấn Tuol Sleng ở Nam Vang, vì họ bị
nghi là thân với Hà Nội. Máu của đồng bào hai nước tiếp tục chảy hằng
ngày, trong lúc hai cái loa của hai đảng, vẫn không ngớt ca tụng, tuyên
truyền tình hữu nghi thắm thiết, một cách trơ trẽn và lố bịch, khiến cho
ai nghe cũng muốn lợm giọng.
Cuối tháng 3-1977, sau khi đã thanh trừng hết tay chân của Hà
Nội, Polpot ban hành nghị quyết 870, công khai chống VN, ra lệnh tàn sát
Việt kiều tại đất Miên, đồng thời tấn công các tỉnh biên giới.
Ngày
30-4-1977, trong lúc Bắc Bộ Phủ từ trên xuống dưới, đang mở đại tiệc ăn
mừng chiến thắng cướp được VNCH, thì từ Hà Tiên, Châu Ðốc, An Giang,
Ðồng Tháp lên tới Tây Ninh.. hằng chục sư đoàn Khmer đỏ, vượt biên giới
tấn công vào các làng xã của VN. Giống như quan thầy Trung Cộng, lính
Miên đỏ hung dữ dã man chưa từng thấy, qua hành động giết người rồi chặt
đầu, mổ bụng, phanh thây và cắt bỏ các cơ quan sinh dục của nận nhân.
Sau đó đốt sạch nhà cửa và bắt hết trâu bò, heo ngựa của người Việt đem
về Căm Bốt. Do sợ Trung Cộng, nên Hà Nội vẫn im lặng nhưng khắp nước
đồng bào đều lên tiếng phản đối, cả tờ báo Quân Ðội Nhân Dân cũng lên
tiếng đòi chính phủ trả đũa. Do trên, Bắc Bộ Phủ đã ra lệnh cho A37 oanh
tạc, rượt đuổi quân Miên chạy về bên kia biên giới.
Tháng
8-1977, tờ Cờ Ðỏ của Polpot (Democratic Kampuchia Advance), cho phát
hành một bản đồ nước Căm Bốt mới, không theo đường ranh Bravie củ. Bản
đồ này, ngoài lãnh thổ nước Kampuchia hiện hữu, còn bao gồm tất cả các
hải đảo của VN và Nam Phần, mà Polpot gọi là Thuỷ Chân Lạp. Việc này vào
tháng 2-1992, quốc hội Trung Cộng cũng đã ban hành phổ biến một bản đồ
của nước Tàu mới, trong đó hải phận Trung Hoa chạy dọc suốt bờ biển VN,
Thái Lan, Mã Lai Á, Nam Dương, Brunei và Philippine. Như muốn đổ dầu vào
lò lửa đang ngùn ngụt cháy, Ðặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phòng.. và đảng
cọng sản Tàu, công khai cổ võ hành động Polpot chống lại VN.
Trước nổi cô đơn thê thiết vì bị Mỹ ngoảnh mặt, Tàu bỏ rơi,
thế giới lợm giọng, đàn em Polpot phản bội và dân chúng miền Nam ù lì
thụ động bất hợp tác. Vì vậy với bản chất lật lọng, quen chịu làm đầy tớ
bất cứ ai nếu có lợi cho đảng và cá nhân. Nên VC lại chạy sang quì lạy
Liên Xô, chịu gia nhập khối kinh tế Comecon và trên hết cho hải quân Nga
vào các hải cảng Ðà Nẳng, Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu. Ngày 6-6-1977,
một phái đoàn quân sự Nga tới thăm Hà Nội. Tháng 10-1977, VC cho chở
một số lớn chiến lợi phẩm tịch thu của VNCH từ tháng 4-1975 gồm phi cơ,
chiến xa, đại pháo.. sang bán cho Ethiopie, một quốc gia Bắc Phi, nói là
để lấy tiền trả nợ cho Trung Cộng . Cũng từ đó, VC công khai làm chư
hầu Liên Xô, nên được đàn anh viện trợ cho một số quân dụng cũ, gồm 2
tàu ngầm, một khu trục hạm, 4 phi đội MIG 21 cùng với đoàn cố vấn Nga
đông đảo. Như vậy thế chân vạc của cọng đảng trong cuộc chiến Ðông Dương
lần thứ III đã thành hình. Một bên gồm Liên Xô-VC-Lào cộng. Phe kia có
Trung cộng và Khmer đó. Người Mỹ đứng giữa đâm thọc cả hai phía, để giật
dây cũng như đổ thêm dầu vào đám cháy đang rực lửa. Ðó cũng là lối trả
thù quý phái của bọn tư bản nhà giàu, trong canh bạc bịp, được coi như
lớn nhất thế kỷ XX.
Ngày
24-9-1977, Khmer đỏ lại vượt biên tấn công Tây Ninh, phanh thây xé xác
hằng trăm đồng bào vô tội. Lần này Bắc Bộ Phủ lột chức Trần Văn Trà, cho
Lê Ðức Anh thay thế. Một ký giả Hung Gia Lợi tên Sandor Giory đã tới
tận hiện trường quay phim, chụp hình nhưng bị công an tịch thu phim máy.
Ðã vậy, 4 ngày sau cuộc tấn công đẫm máu tại Tây Ninh, Hà Nội vẫn gủi
điện văn tới chúc mừng Polpot, trong dịp lễ ăn mừng 20 năm thành lập
đảng Miên Cộng.
Rồi
thời cơ chín mùi qua sự hứa hẹn của LX sẽ ra mặt can thiệp nếu Trung
Cộng tấn công VN. Ðể lấy lòng tin thằng đầy tớ mới, LX cho hằng chục sư
đoàn trải dài khắp biên giới Nga-Hoa và phái một mẫu hạm thường trực
tuần thám trong hải phận vịnh Bắc Việt. Cũng từ đó, Hà Nội mới bắt đầu
trả đũa, tung quân chiếm lại các làng mạc bị Khmer đỏ cưởng chiếm. Quân
VN còn thọc sâu vào lãnh thổ tỉnh Svay Riêng, để giải thoát cho các
tướng lãnh Miên đang bị Polpot thanh trừng đuổi giết, như Hunsen, Heng
Samrin, Bonthang.. đem về VN. Sau đó VC cho diễn lại vở tuồng củ năm
1960 ở miền Nam VN, dùng các quân bài trên, để thành lập cái gọi là ‘
Mặt Trận Giải Phóng Căm Bốt ‘.
Ngày
5-10-1977, Trung Cộng và Polpot chính thức ký một ‘ Nghị định thư ‘
(Protocol), để bổ túc cho Hiệp định quân sự, mà hai bên đã ký ngày
1-2-1976. Theo đó, Trung Cộng sẽ viện trợ quân sự cho Khmer đỏ vô điều
kiện không hoàn trả. Ngày 1-11-1977, Trung Cộng cắt đứt đường bay Bắc
Kinh-Hà Nội. Ngày 21-11-1977, Tổng bí thư Lê Duân sang chầu thiên triều
xin tạ tội nhưng bị Ðặng Tiểu Bình xua đuổi. Thế là đảng VC quyết định
theo hẳn Nga Sô chống Tàu Cộng từ đó, tuy nhiên trước khi sang Mạc Tư
Khoa ký kết, Võ Nguyên Giáp được lệnh bí mật bay tới Tân Ðề Ly nhờ giúp
đỡ. Nhưng thời thế đã đổi thay, vì lúc đó Ấn Ðộ theo Tây Phương, không
trung lập thân cộng, nên đã từ chối lập tức. Thế là lò lửa chiến tranh
giữa ba đảng anh em Tàu-Việt-Miên, đã chính thức bùng cháy, không ai có
thể dập tắt được.
2-TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG QUÂN SỰ GIỮA KHMER VÀ VIỆT NAM CS
Thật
vậy, sau tháng 5-1975, VN là nước có dân số đông thứ 13 trên thế giới.
Về quân sự, quân đội VN xếp hàng thứ bốn, sau Trung Cộng, Hoa Kỳ và Liên
Sô, đông hơn nhiều lần, quân số của sáu nước ASEAN (Thái, Nam Dương,
Phi, Mã, Tân Gia Ba và Bruein) cộng lại. Do sự đối nghịch của Kampuchia
và Trung Cộng, nên dù mang tiếng có hòa bình sau ngày 30-4-1975, Bắc Bộ
Phủ vẫn duy trì và tăng cường quân số nhiều hơn trước, nên chỉ riêng
chính qui, đã có từ 700000-1.000.000 người. Về chiến lược, cả nước chia
thành 7 quân khu : I,II,III,IV,V, VII và IX. Ngoài ra còn có quân khu
Thủ Ðô Hà Nội), Ðặc khu Quảng-Ninh và HCM (Sài-Gòn). Quân Ðội vẫn gồm ba
binh chủng Hải, Lục và Không quân. Từ sau tháng 4-1975, Lục quân được
tổ chức thành bốn quân đoàn lưu động, như các bỉnh chủng Dù, TQLC và BDQ
tổng trừ bị của QLVNCH. Các quân đoàn mang số 1 (Quyết thắng), II
(Hương Giang), III (Tây Nguyên) và IV (Cửu Long). Từ năm 1979 về sau, do
tình hình chiến sự, quân số đã tăng lên tới tám quân đoàn. Mỗi quân
đoàn có quân số chính qui gần 50.000 người, cộng thêm các đơn vị yểm trợ
như thiết giáp, công binh, pháo binh, truyền tin, quân y.. Không kể
chiến lợi phẩm thu được của miền Nam (phần lớn đã bán cho Châu Phi), lúc
đó bộ đội CS có trên 1000 thiết giáp T34,54,55,59,62 cộng với 500 xe
PT76, nhiều súng đại bác đủ loại, mấy ngàn súng phòng không, sử dụng hỏa
tiễn Sam. Ngoài lực lượng chính qui Miền tức là quân khu, còn có chủ
lực tỉnh như trung đoàn Bắc Thái, Gia Ðịnh, Sông Bé, Vàm Cỏ.. Về lực
lượng Dân quân, có tỉnh đội, huyện đội, xã đội.. Lục quân còn có các đơn
vị đặc biệt như Ðặc Công, Lữ Ðoàn 305 Dù, quân đoàn 559 công binh, sư
đoàn 673 cao xạ..
Sau 1975, Hải quân CS.VN có
hơn 1000 tàu chiến đủ loại, lớn nhỏ, trong số này có nhiều tàu của VNCH
để lại. Hải phận chia thành năm vùng trách nhiệm và các Bộ tư lệnh vùng
đóng tại Hải Phòng, Vinh, Ðà Nẳng, Vũng Tàu và Rạch Giá. HQ gồm hai Hạm
đội : Hàm Tử phụ trách biển bắc (Vịnh Bắc Việt) và Bạch Ðằng có trách
nhiệm ở phía nam, tới vịnh Phú Quốc.
Riêng
Không quân có quân số chừng 20.000 người. Ngoài số phi cơ A37,F5, vân
tải, trực thăng.. của VNCH bỏ lại, còn có các máy bay chiến đấu MIG 21,
23 - trực thăng võ trang do Liên Xô viện trợ. Tất cả chừng 1000 chiếc,
lập thành các không đoàn oanh tạc, chiến đấu, vận tải, huấn luyện.
BTL/Không quân đóng tại phi trường Bạch Mai ( Hà Nộ).Năm 1980, quân đội
VN có quân số hơn 2 triệu người, đứng hàng thứ 3 thế giới (Tàu, Nga, VN,
Mỹ).
Trái
lại quân đội Kampuchia lúc đó chỉ có 68.000 quân, rồi tăng lên 150.000
khi đánh nhau với VN và chia thành 23 sư đoàn. Riêng hải và không quân
thì không đáng kể, với một số lượng tàu chiến nhỏ, cũng như một số máy
bay cũ kỹ lỗi thời và vài máy bay Mig 15, 17 chưa xử dụng. Binh sĩ thì
đa số là du kích không quen lối đánh vận động chiến, có thiết giáp pháo
binh phối hợp. Tuy nhiên vì cùng xuất thân một lò cọng sản, được nhồi
sọ, nên rất cuồng tín đa sát, dù đã bại trận nhưng cũng đã gây cho VN
nhiều tổn thất nặng nề, trong thời gian Kampuchia bị VC chiếm đóng
(1979-1990).
2- CHIẾN CUỘC ÐẴM MÁU GIỮA VIỆT CỘNG VÀ KHMER ÐỎ :
Sau
khi đi Tàu cầu hòa lần chót bị thất bại nên phải chạy theo Nga, vì vậy
Lê Duẩn quyết định tấn công trả đũa Polpot. Ngày 2-12-1977, quân đoàn 4
hay Binh đoàn Cửu Long, gồm các SD chính quy 7,9,341 có không quân,
thiết giáp, pháo binh yểm trợ, do Hoàng Cầm chỉ huy, với quân số trên
60.000 người, cộng thêm nhiêu Thanh Niên Xung Phong lo phần tiếp vận,
công binh.. đồng loạt tấn công tai chiếm phần đất Tây Ninh bị chiếm, rồi
tràn vào đất Miên tiêu diệt Quân Khu Ðông của Khmer đỏ. Vì lúc đó Bộ
trưởng Nguyễn Duy Trinh, đang thăm khối ASEAN, nên quân VN được lệnh rút
về nước ngày 6-1-1978. Lập tức Ðại sứ Kiều Minh và toàn bộ ngoại giao
đoàn bị trục xuất khỏi Nam Vang. Ngoài ra Polpot cho triệu hồi đại sứ
Sokheng từ Hà Nội về rồi giết chết. Cũng từ đó, đã có sự rạn nứt trong
nội bộ, đưa tới sự thanh trừng, làm suy yếu quân đội.
Trong
trận tấn công vừa qua, VN đã giải thoát và đem về nước hơn 60.000 nạn
nhân bị Polpot cáp duồng gồm Việt-Hoa kiều và một số dân Miên. Tất cả
được tạm trú tại các Trại Tị Nan mới lập ở Bến Sành (Tây Ninh) và Bến
Tranh (Ðịnh Tường), do Liên Hiệp Quốc bảo trợ. VC nhân cơ hội vào trại
tuyên truyền và tuyển mộ lính. Ngày 15-2-1978, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ, từ
Hà Nội vào Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia của VNCH ở Sài Gòn, để chủ tọa
buổi ra mắt cái gọi là ‘Mặt Trận Kháng Chiến Khmer ‘.Những cán bộ Miên
Cộng thân Hà Nội như Pensovan, Chensi, Heng Sarin, Tang Soroun và
Chesoth đều được chỉ định làm cấp lãnh đạo. Tân binh Miên được VN huấn
luyện cấp tốc tại các quân trường cũ của miền Nam như Chí Lăng, Vị Thanh
và Long Giao.Ngày 22-4-1978, thành lập Lữ Ðoàn 1 Kháng Chiến Miên, rồi
đưa về nước đánh Polpot. Trong lúc đó, quân Khmer đỏ lại tự tàn sát lẫn
nhau tại các tỉnh miền đông như Kampong Chàm,Svayr Rieng và Prey Veng.
Lợi dụng sự chia rẽ trên, VC kêu gọi dân Miên nổi lên lật đổ Polpot.
Tháng
6-1978, Hà Nội lại oanh tạc Kampuchia. Tháng 9-1978, Phạm Văn Ðồng sang
du thuyết giải độc tại 6 nước ASEAN nhưng bị thất bại. Ngày 1-11-1978,
Lê Duẩn, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Cơ Thạch .. lại sang Liên Xô, để ký hiệp
ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước trong vòng 25 năm. Theo đó Nga đã
viện trợ quân sự, cũng như nhân đạo 1,5 triệu tấn mễ cốc cứu đói. Ngoài
ra Nga còn cam kết sẽ can thiệp, nếu Trung Cộng xâm lăng VN. Cũng vì quá
tin tưởng vào lời hứa cuối này, mà VC đã sử dụng gần 3/4 quân số khi
tấn công Khmer đỏ, nên không đủ lực lượng phòng thủ biên giới phía bắc,
khi Trung Cộng xâm lăng VN.
Ngày
2-12-1978, Lê Ðức Thọ, Ðồng văn Cống .. đã đến chủ tọa ngày thành lập ‘
Mặt Trận Cứu Nguy Cam Bốt ‘, gọi tắt là KNUFNS, tại một khu rừng già
trong tỉnh Kratie vừa chiếm được. Tại đây đã tập họp được một lực lượng
đông đảo chống Polpot gồm tân binh, lính khmer đào ngũ và Ham Samsin
được phong chức chủ tịch mặt trận. Rồi hằng ngày tiếng nói của những
người Miên chống đối được phát thanh, đồng thời VC dùng máy bay rải
truyền đơn chống Polpot, được rải khắp lãnh thổ Cambốt. Song song, lá cờ
củ của Khmer Issarak năm 1950, với hình năm ngôi tháp vàng trên nền đỏ,
được xài lại. Bộ chỉ huy tiền phương của VN đóng bên cạnh quân Miên,
chuẩn bị tấn công quân Khmer đỏ của Polpot.
Ðể
tiêu diệt Khmer đỏ qua thời gian kỷ lục, đặt dư luận thế giới trước sự
đã rồi. Do trên Hà Nội đã mở cuộc hành quân thần tốc, sử dụng trên
200.000 quân sĩ của ba trong bốn quân đoàn chính quy và một lực lượng
yểm trợ hải-không quân, hỏa tiễn và thiết giáp. Lê Dức Thọ vào thay Lê
Trọng Tấn, giám sát chiến dịch, còn Lê Ðức Anh làm tổng tư lệnh chiến
trường. Sư đoàn 2 và Trung đoàn chủ lực Tây Ninh khai pháo trước một
ngày,khi Chu Huy Mậu tổng cục
trưởng TCCT bắn phát súng lệnh mở màn chính thức cuộc tấn công Cam Bốt
vào lúc 12 giờ khuya đêm giáng sinh 1978 tại Ban Mê Thuộc.
Theo
kế hoạch, quân VN vượt biên giới tấn công Kampuchia bằng nhiều hướng, Ở
phía bắc, quân khu V + quân đoàn 3 Tây Nguyên (gồm SD10,320,31), do Kim
Tuấn chỉ huy, đánh chiếm tỉnh Stung Treng và toàn vùng đông bắc giáp
với Lào. Cánh quân thứ hai của quân khu VII (gồm SD 303,302,5) +quân
đoàn 3 với Lữ đoàn 12 thiết giáp, các trung đoàn tỉnh Tây Ninh, Sông Bé,
Long An.. từ hướng bắc Tây Ninh, Ql 7 và 13 tấn công chiếm Kompong Chàm
và Kratié. Hướng tấn công chính cũng phát xuất tại Tây Ninh, do quân
đoàn 4 phu trách (SD 2,7,9,341) + lữ đoàn 22 thiết giáp, lữ đoàn 24 pháo
binh và lữ đoàn 25 công binh. Quân khu IX có quân đoàn 2 hay Binh đoàn
Hương Giang tăng cường, tấn công từ An Giang, Hà Tiên. Tóm lại, ngoại
trừ SD 306 được giữ lại để phòng thủ Lào, các SD 304, 325 cũng được điều
động về nước tăng cường.
Cuộc
chiến xảy ra thật đẫm máu và ác liệt, cộng thêm không quân và pháo binh
ào ạt giội bom nã đạn, đánh bật 30.000 quân Khmer đỏ và nhiều cố vấn
Trung Cộng, phải bỏ các tỉnh dọc biên giới Miên-Việt, tháo chạy về Nam
Vang. Tại đây, bộ đội VC chiếm được nhiều quân dụng mới chưa sử dụng do
Tàu viện trợ cho Cam Bốt như phi cơ, trong pháo.. Tuy nhiên VN cũng bị
thiệt hại nặng, trên đường tiến quân về thủ dô, vì phục kích, mìn bay
tại Fishhock, Kompong Cham và bến phà NeakLuong. Ðặc công VC cũng lén
đột nhập vào Hoàng cung để giải thoát cho cựu hoàng Sihanouk nhưng
Polpot đã cho di chuyển đượng sự tới Sisophon, nằm sát biên giới
Miên-Thái.
Tính
đến ngày 4-1-1979, VN làm chủ hoàn toàn các tỉnh miền đông của Cam Bốt.
Ngày 6-1-1979, 7 SD của VN + 3 lữ đoàn Miên của Heng Samrin, qua phà
trên sông Cửu Long, đồng loạt tấn công Phnom Penh. Thủ đô thất thủ sau
một ngày kích chiến. Polpot cùng toàn bộ Khmer đỏ bỏ chạy tới tận
TaSanh, sát biên giới Miên-Thái, để tiếp tục chống VC.
Tóm
lại ngày 8-1-1979, đồng bào Cam Bốt coi như được giải thoát khỏi bàn
tay sát nhân của Polpot và Khmer đỏ. Một Hội đồng cách mạng Kampuchia
gồm 8 ủy viên được thành lập, do Heng Samrin làm chủ tịch. Ngày
14-1-1979, Ðặng Tiểu Bình, Hàn Niệm Long và nhiều uỷ viên cao cấp, trong
Bộ Chính trị Trung Cộng, tới Thái Lan, tiếp xúc mật với thủ tướng
Kriang Sok tại căn cứ Utapao. Sau đó, Thái cho Polpot và Khmer đỏ dung
thân trên biên giới của hai nước. Qua sự yểm trợ và cưu mang hết mình
của Tàu Cộng, Polpot lại tiếp tục đánh du kích với VC khắp nước Miên,
cho tới đầu thập niên 90, qua áp lực của thế giới, cũng như sự sụp đổ
của Liên Xô-Ðông Âu, VC mới chịu rút quân về nước, chấm dứt chiến tranh
nhưng thù hận giữa hai đảng cọng sản anh em tới nay, vẫn ầm ỹ, dù ngoài
mặt Hun Sen luôn bợ Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
- Brother Ennemy của Nayan Chanda do Phạm Quốc Bảo dịch.
- Giọt nươc trong biển cả Hoàng Văn Hoan
- Mặt thật của Thành Tín
- Chinese aggression against VietNam
- Death in The Rice Field của Peter Scholl Latour
- Sau bức màn đỏ của Hoàng Dung.
- Tài liệu ‘ Trận Biên giới Hoa Việt lần 2’ trên Diễn Ðàn Việt Nam Exodus..
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp 2014
MƯỜNG GIANG
Comments
Post a Comment