ĐÔI ĐIỀU VỀ NỀN ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA
Lời tác giả.- Tưởng
tôi là người hiểu biết nhiều, nên người bạn phương xa đã yêu cầu tôi
viết đôi điều về nền Đệ Nhất Cộng Hòa ( ĐNCH ) Việt Nam. Đáng lẽ phải “ Dựa cột mà nghe “, nhưng chẳng đặng đừng tôi cũng xin có đôi lời với vài ý tưởng đơn sơ. Trước
đây tôi dạy khoa học ở Trung học, không lưu tâm nhiều về chính trị,
nên sự hiểu biết về chính trị cũng như những nhân vật có ảnh hưởng đến
nền chính trị quốc gia chẳng có bao nhiêu, nhưng nay tôi đang tìm học
hỏi về Văn hoá, tôi thử đem một ít kiến thức về nền Văn hoá Việt mà tôi
học được, để lướt qua vài điểm về nền ĐNCH mà tôi lưu tâm.
Cuộc cờ Việt Nam.
1.- Nhân vật chính chơi bàn cờ thời Đệ nhất cộng hoà là Chí sĩ Ngô Đình Diệm.Trước hết tôi có ít điều về con Người Ông.Tuy Ông là một người Tây học, do truyền thống Nho giáo trong gia đình Ông
cũng có đời sống tiết tháo của một nhà Nho, người ta tôn xưng là Chí
sĩ Ngô Đình Diệm. Lúc còn trẻ Ông đã làm quan to trong triều nhà
Nguyễn, nhưng thấy không thể thực hiện được hoài bão cứu nước của mình
nên Ông đã rủ áo từ quan. Ông cũng bôn ba khắp nơi để tìm đường cứu
nước, nghĩa là tìm một Chủ đạo và một Phương thế thực hiện để đưa đất
nước ra khỏi sự đô hộ của Pháp và xây dựng sự tự do và no ấm cho toàn
dân,chứ không phải để rước CS quốc tế về để giết hại đồng bào, phá
nước, và bán nước như Hồ Chí Minh.
2.- Trước hết Ông là một người có Trí sáng suốt, nhờ
đó mà Ông không sa vào bẩy của Pháp cũng như cái bẩy Liên Hiệp của Hồ
Chí Minh để rồi bị hãm hại như những thành phần trí thức nhẹ dạ khác. Lúc
về làm Thủ tướng rồi Tổng thống tuy bị vây khổn trong mớ bòng bong của
đất nước, ông vẫn tìm cách thoát ra được. Đến khi phải chết ông đã
chọn cái chết tuy quá nhục nhã đau thương nhưng mà lại “ nhẹ tợ lông hồng “ ,Ông đã chọn cái Chết” vị Quốc vong Thân “ !
3.-Trong
thời gian chấp chánh, về nội bộ thì ông phải đương đầu với các Giáo
phái miền Nam, các phe phái chính trị khác nhau, rồi đến những xáo trộn
tôn giáo điên đầu, mà chính ông đã ý thức rõ để tránh vấn đề nhưng vẫn bị hai bên gài vào nên không thể tránh.Khó
khăn nhất là về nhân sự, những tướng lãnh trong quân đội đa phần xuất
thân trong quân đội Pháp, những người trong chính quyền đa số là công
chức chưa thể quen đóng vai trò chiến sĩ tranh đấu với CS.
4.- Lực lượng chính mà ông trông cậy vào là những người công giáo, nhất là khối người di cư tỵ nạn, họ có một ít kinh nghiệm sống với cộng sản. Nhưng
những người công giáo hiểu được tình hình đất nước và quốc tế rất ít
oi, tuy họ có giúp đỡ được nhiều, nhưng không ít người không phân biệt
nổi ranh giới giữa Tôn giáo và chính trị, thậm chí có thành phần cứ bô
bô cái miệng “chỉ có người Công giáo mới chống cộng “, phần nào gây ra
sự chia rẽ, Cũng có nhiều kẻ lợi dụng ưu thế chính trị để mưu lợi cho
Tôn giáo mình, gây ra mâu thuẩn Tôn giáo, do đó mắc vào sự gài bẩy của cả lực lượng Bạn cũng như kẻ Thù CSVN. Vì quá Thương nhau cách tiểu Tâm tiểu Trí, tiểu Danh tiểu Lợi, nên đã vô tình phụ nhau trong Đại cuộc.
5.- Các thành phần ở miền Nam cũng rất phức tạp, vì gồm nhiều thành phần thuộc nhiều chiến tuyến trộn lẫn với
nhau.Điều quan trọng nhất là những người tự nhận là cùng chiến tuyến
quốc gia thay vì tập trung lực lượng để dẹp tan kẻ thù CS, đàng này hai
lực lượng tôn giáo chính lại bị gài vào cái bẩy cấu xé nhau để thua
CS, nguyên nhân là xã hội đã quá phân hoá, đa số không nhận diện ra nan
đề và đáp đề của đất nước. Nan đề là vấn đề con Người
phân hóa và xã hội rối như tơ vò. Thay vì cùng nhau tìm ra hướng cứu
nước chung mà vươn lên để cùng nhau quy hướng vào việc đánh tan kẻ thù mà xây dựng đất nước, thì lại cấu xé nhau thậm chí còn mắc mưu kẻ thù gian manh lừa đảo!Ngoài
ra các Tôn giáo, các đảng phái chính trị, các phe phái phần nào phục
vụ quốc gia với tinh thần lợi ích riêng của phía mình nên mới đụng chạm với nhau, miệng nói làm việc chung nhưng tay lại vơ lợi riêng nên nạn phân hoá đem tới cảnh Nước mất Nhà tan!Đây là bài Học còn phải Học rất kỹ hoài hoài cho tới mai sau.
6.-
Sau Hiệp định Genève, CSVN đã để lại rất nhiều nội tuyến trong các xã
ấp, và lại cho đi tập kết rất nhiều người ra Bắc, đây là những giây mơ
rễ má đan kết thành phần CS vào nhân dân miền Nam bằng sợi dây tình cảm, nên đã gây ra bao nhiêu rắc rối khó gỡ dài dài về sau.
7.- Về phía thế giới Tự do đứng đầu là Hoa Kỳ, lấy tiêu đề chống CS để bảo
vệ Tự do, hầu xây dựng Dân chủ Nhân quyền, một số các nước Đồng minh
Tây và Đông phương cũng tham gia yểm trợ. Đó là mặt trận thế giới Tự
do. Nói
là giúp tiền đồn VN chống CS để bảo vệ sự Tự do của người dân, nhưng
nói vậy mà không hoàn toàn như vậy, cứ nhìn vào những cảnh náo loạn
trước và sau ngày 1/11/ 1963 cũng như những ngày cuối 30 tháng Tư năm 1975 thì thấy rõ! Người
Việt Nam lấy tâm lý Khổng Mạnh mà đặt niềm tin đặc biệt về thành phần
lãnh đạo thế giới Tự do là Hoa Kỳ, thực ra quá ngây thơ, nên cũng chẳng
hiểu gì nhiều về các cơ chế và sách lược của Hoa Kỳ, cứ nhìn vào sự
hùng mạnh của Hoa kỳ mà vững tin cho là không bao giờ Hoa kỳ lại để cho
VNCH thua CS!! Đa số không hiểu mục tiêu của chế độ Tư bản là mối Lợi Lớn, khi có mòi không ăn thì Lý tưởng là phải tính kế Rút lui tìm Kế khác. Đó là lối sống Thực tiễn mà người Việt Nam chưa quen bao giờ.58
ngàn sinh mạng quân đội Hoa Kỳ là sự hy sinh quá to lớn,chúng ta biết
ơn và cảm phục, nhưng nhìn lại cuộc chiến đã giúp gì cho VN thì không
thấy gì ngoài sự mất mát kinh hồn. Bao nhiêu xương máu và công lao của nhân dân trong mấy thập niên đều đổ xuống biển!
8.-Tuy
đã rút khỏi Việt Nam nhưng Pháp cũng còn tiếp tục nhiều âm mưu thủ
lợi, gây khó khăn thêm cho VNCH. Đồn điền cao su cũng có thể xem như
một mật khu khác..
9.-Về
phía quốc tế CS thì có Liên Xô và Trung cộng dẫn đạo.. Liên Xô và
Trung cộng có một lý thuyết “ sách động người nghèo kém hiểu biết “ thật lôi cuốn, họ dễ biến thành họ những khối thịt đè người. CS quốc tế lại có những kế sách gian manh rất bạo tàn và tinh vi quá khiến người có lương tâm không thể ngờ nổi. Ngu dốt và Bần cùng ( do bị nô lệ lạc hậu ) là nguyên nhân khiến thành phần đa số rất dễ bị dụ dỗ vào con đường đạo tặc rất nguy hiểm. Đa
số thành phần lãnh đạo CSVN cũng ít hiểu biết và rất ngây ngô về việc
lớn nhưng mà quá gian giảo trong việc nhỏ, tin mù quáng vào lý tưởng
cao cả Quốc tế CS, không hiểu đó chỉ là một khẩu hiệu
trống rổng, chỉ là mưu đồ của phường khát máu và tham lam, tưởng những
lời tuyên truyền về chủ nghĩa Marx là thật nên CSVN nhận Kẻ thù truyến kiếp làm bạn, làm đồng chí. Đến nay cổ đã bị xiếng, CSVN mới nhận ra thì đà quá muộn!
10.- Ông Ngô
Đình Diệm hiểu rõ tình thế khó khăn đó, nhưng vẫn không sờn lòng, cờ
đến tay thì cứ phất để cứu nước, có lẽ Ông đã nghĩ nếu không thành công
thì cũng thành Nhân. Sau
Hiệp định Genève, tình thế ở miền Nam vô cùng rối ren, Quốc Trưởng bảo
Đại cứ ở bên Pháp, yêu cầu Ông Ngô Đình Diệm về chấp chánh. Tuy đã
chuẩn bị đi tu, nhưng vì nhu cầu cứu nguy đất nước, nên ông phải trở về
làm Thủ Tưởng, rồi sau đó được Trưng cầu dân ý để làm Tổng Thống. Sở dĩ ông vượt qua được những chướng ngại to lớn đó là nhờ Ông có cái Tâm Bồ tát. Lòng Nhân ái vì Dân vì Nước và Trí sáng suốt đã giúp Ông thắng được mọi nỗi sợ hãi, những hiểm nguy và tham vọng về Danh Lợi.Từ
xưa tới nay, những vĩ nhân đều có cái Tâm Bồ tát, thiếu cái Tâm thì
không còn Nhân tính, đâu có biết yêu Dân, yêu Nước, nên không thể làm việc lớn được.
11.-
Cũng nhờ cái Trí sáng suốt và cái Tâm cao cả, mà trong những lúc nguy
hiểm nhất như khi đối đáp với Đại sứ Cabot Lodge, cũng như thái độ bình
tĩnh ở nhà thờ Cha Tam, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã đạt tới đức Dũng phi thường,
chấp nhận cái chết một cách thản nhiên. Sở dĩ Tổng thống Diệm có được
hành động can trường và cao cả như vậy là nhờ Ông đã hưởng thụ được ba Đức tính Nhân Trí Dũng của Nho giáo cũng như lòng Bác ái và lẽ Công bằng của Kitô giáo.Trong
tình thế thiên nan vạn nan như thế, mà chỉ trong một thời gian ngắn
Ông chấp chánh mà miền Nam VNCH đã được Bình định, đời sống nhân dân
miền Nam rất thoải mái từ năm 1956 - đến 1963.
12.- Nói như thế không phải Tổng thống Diệm không có khuyết điểm, nhất là khuyết điểm khó có thể tránh, đó là vì ông được sinh ra và sống sai Không gian và Thời gian:Sai
không gian vì Ông sinh vào đất nước Việt Nam là tiền đồn của Thế giới,
tức là nơi xâu xé của liệt cường, biến Việt Nam thành một con cờ bất
đắc dĩ. Sai
Thời gian là vì Ông là một Chí sĩ của Nho giáo, sống theo lối Tôn Ty,
Trật tự, coi trọng Danh dự và Khí tiết, chuộng Trật tự hơn Tiến bộ,
không uyển chuyển đủ để theo đà tiến bộ mà thủ Lợi. Đàng
khác nước đỡ đầu là Hoa kỳ lại cổ võ cho chế độ Dân chủ Tự do, chấp
nhận thiếu Trật tự để mưu cầu Tiến bộ, ai không chịu theo chiều hướng
tiến bộ tất phải bị đào thải . Tuy VNCH và Hoa kỳ được tuyên xưng là đồng chiến tuyến, nhưng thực sự rất khác nhau về mục tiêu: một bên VNCH nặng về lối sống Nhân Nghĩa và nhất là muốn nâng
cao mức sống toàn dân và duy trì trật tự xã hội, còn bên Hoa kỳ là
nước Tư bản đã yên hàn, coi trọng tự do để tiến bộ hầu đạt nhiều mối Lợi. Ta
hảy nhìn lại trong những năm 1960 – 1963, với nền Dân chủ mới khai
sinh, ông phải đương đầu không biết bao nhiêu là khó khăn của những kẻ
thù trong, giặc quốc tế bên ngoài, thế mà Hoa Kỳ vẫn cứ đòi hỏi chính
quyền VNCH phải chơi trò dân chủ như đất nước yên hàn Hoa kỳ đã tiến
triển trong quá trình dân chủ hơn 200 năm!
13.-
Nói đến Thổng thống Ngô Đình Diệm mà không nhắc đến cố vấn Ngô Đình
Nhu là điều thiếu sót lớn. Nói cách tổng quát, Tổng thống Diệm trội
vượt về Nhân, còn Cố vấn Ngô Đình Nhu lại nổi hơn về Trí, nhất là về
Chiến lược và chiến thuật chống cộng. Bao nhiêu chiến lược
và chiến thuật chống cộng cũng như xây dựng quốc gia, cố vấn Ngô Đình
Nhu đều đóng góp phần quan trọng. Vì thế mới có những áp lực phải tách
Cố vấn Nhu ra khỏi Tổng thống Diệm, Không biết từ phía nào ?Con Người Ông Ngô Đình Cẩn được gán cho cái tên cậu Út nhai
trầu, cho là người ít học quê mùa, nhưng đến nay ta mới nhận ra Ông có
biệt tài về phương diện an ninh tình báo. Ông và Ông Phan Quang Đông
đã làm cho tổ chức Tình báo miền Trung của VC điêu đứng.Lúc
đó mạng Tình báo của VNCH ở miên Nam cũng đã có vai trò thật xuất sắc,
nhưng có nhiều phương diện không hơn được mạng lưới ở miền Trung.
14.-
Nói tóm lại Tổng thống Ngô Đình Diệm là một nhân vật có gồm đủ Trí
Nhân Dũng, Ông đã sống như một chíến sĩ quốc gia can trường và chết cái
chết của vị anh hùng cao cả của dân tộc.Chắc ai cũng biết rõ những lời ông đối đáp với Đại sứ Cabot Loge về vấn đề Tỵ nạn của
ông cũng như những giây phút chuẩn bị chấp nhận sự nguy hiểm ở lại mà
không trốn tránh để giải quyết vấn đề quốc gia với những tướng phản
loạn, cũng như những giây phút thật căng thẳng nhưng lại vô cùng bình
thản ở nhà Thờ Cha Tam thì sẽ nhận ra Tổng thống và ông Cố vấn là những
người thế nào! Đau đớn cho Dân tộc vì ham mê chút tiểu Danh, tiểu Lợi của một số Tướng vô Tâm Tính có hành
tung như tướng Quảng Lạc, đã làm nhiệm vụ đâm thuê chém mướn, giết hại
những người con yêu quý hiếm hoi của đất nước, nhưng cao đẹp và oai
hùng thay những tấm gương sống sáng ngời dũng lựợc. Vì chút tiểu Lợi mà các Tướng Quảng Lạc đã bị biến thành những con taret đục khoét con đê tiền đồn VN vỡ tan ra từng mảnh !
15.-
Gia đình Ông Ngô Đình Diệm chói sáng quá, những nhân vật như Tổng Giám
mục Ngô Đình Thục, đại sứ Ngô Đình Luyện, Tổng thống Ngô Đình Diệm, cố
vấn Ngô Đình Nhu và bà vợ Trần thị Lệ Xuân cùng cố vấn Ngô Đình Cẩn
đều là những người rất có Lòng và có Khả năng cứu nước, nhưng làm sao
mà tránh cho được những cái bẩy chằng chịt của nhiều phía chăng ra cũng như không thể không có những khuyết điểm đáng trách.Có
làm việc trong tình trạng rối ren vô cùng khó khăn đó, mới nhận ra
những nhân vật đó là những người thế nào, nhưng chỉ ngồi vạch lá tìm
sâu mà chỉ trích thì là người phá hoại, chỉ làm lợi hay là chủ tâm giúp CSVN mà thôi!Lý do bị vu khống là “ gia đình trị “ bắt nguồn từ “ lý do trâu cày trâu cột “ , mà cũng do sự xui dục từ nguồn CS nữa? Lúc
đó ta nghe lời thì thầm rằng, Công giáo là những người cộng rắn cắn gà
nhà, chứ mọi thành phần khác trong nước có chuyện gì với nhau thì có
thể ngồi lại với nhau mà bàn thảo mà hoà giải?Nhưng
chỉ một số ngày sau 30 tháng Tư thì thành phần đó mới mở mắt ra, rằng
hoà Hợp hoà Giải Dân tộc chỉ là cái Bẩy để đưa họ xuống hố!Nay cuộc cờ đã tàn
người ta mới bình tâm nhận ra là gia đình này có công lớn với quốc
gia, giết hại gia đình này mở đầu gây thiệt hại vô cùng to lớn cho quốc
gia. Những thành phần góp công tiêu diệt gia đình hiếm có này không
thể phủ nhận đã cố ý hay vô tình góp công giúp Cộng sản làm tan hoang đất nước và đưa dân tộc vào cuộc sống trầm luân ngày nay!
Quốc kế Dân sinh
Để thấy rõ được trận đồ thế giới, hầu thấy được vai trò và nhiệm vụ của đất nước chúng ta, tưởng nên rảo qua ít nét về nền tảng của các chế độ:
1.- Chế độ Tư bản đặt nền tảng trên quyền Tư hữu tuyệt đối, quyền này được luật pháp bảo vệ. Động lực của Chế độ Tư bản là Sản xuất và Tiêu thụ cùng Tự do cạnh tranh. Đây
là những vòng xoắn ốc, cùng nhau đồng tiến: Sản xuất ra nhiều thì phải
tiêu thụ nhiều, muốn được tiêu thụ nhiều thì phải có thị trường để
cạnh tranh bán hàng sản xuất, muốn có thị trường rộng và nguyên vật liệu nhiều thì phải chiếm thuộc địa. Khi mức độ sản xuất, tiêu thụ tăng cao, thị trường mở rộng thì
Lợi nhuận càng nhiều, do đó cũng gây ra vô số bất công trong xã hội,
đó là chưa nói đến khi kinh tế khủng hoảng thì xẩy ra những cuộc chiến
tranh thế giới khủng khiếp. Đây là cái mầm sinh ra CS quốc tế.Ngày
nay chế độ Tư bản nhất là ở Hoa Kỳ đã tự điều chỉnh theo cung cách “
Lao Tư lưỡng lợi “, cũng như có chương trình “ An sinh xã hội để giúp
người nghèo” để giảm bớt khoảng cách Giàu Nghèo, nhưng không những chưa
vẫn chưa giảm mà ngày còn càng gia tăng, vì nền tảng mất quân bình còn
vẫn giữ nguyên. Ngày nay không cần chiếm đất đại mà chỉ cần thị trường tiêu thụ, qua sự cạnh tranh về sản phẩm của nền Kỹ thuật cao.
2.- Nền tảng của chủ nghĩa CS là quyền Công hữu, tức là phải tước bỏ quyền Tư hữu được cho là nguồn gốc của bất công xã hội, và để Công hữu cho đảng CS quản lý. CS
cho sự chiếm hữu tài sản là nguồn gốc của mọi sự bất công xã hội,nên
phải cào bằng tất cả để rồi sau đó Đảng CS quản lý mọi sự cho được công
bằng, đây là sự lừa đảo trâng tráo, ngây ngô nhưng vô cùng nguy hiểm. Nguỵ
biện “ làm theo khả năng hưởng theo nhu cầu “, cũng giúp CS đem nhốt
toàn dân vào trong nhà hai nhà tù Hộ khẩu và Tem phiếu thực phẩm. CS
lại ngụy tạo ra hai cuộc chiến tranh để làm cách mạng vô sản, vì có
chiến tranh thì mới dùng luật pháp thời chiến để thực hiện cuộc giết
người mà cướp của toàn dân. Trong
khi Thế giới Tự do đánh CS vào yếu điểm Tự do và vô Thần ở trên Cao là
vần đề chỉ có thiểu số hiểu rõ và quan tâm, thì CS quốc tế đánh Thế
giới Tự do ở chỗ dưới Thấp là quyền Tư hữu, tức là nhu cầu bao tử của đa số người nghèo và
sự bất công xã hội là nguyên nhân gây ra sự mất Tự do và đau khổ cho
đa số đó , vấn đề này thì người bần hàn nào cũng hiểu nên liều mình
tham gia để lấy đa số tiêu diệt thiểu số. CS quốc tế thắng nhiều nơi là do biết lợi dung sư ngu dốt của đám đông, lấy nhu cầu bao tử để dụ dỗ người nghèo đi vào con đường tàn bạo, khi đã vỡ lẽ ra thì họ đã bị giam hãm vào trong tròng nô lệ mất rồi!
Ngày nay chế độ cộng sản đã bị đào thải, nhưng một số nước còn lại vẫn giữ tính chất độc đảng độc quyền độc lợi, nên nhân dân vẫn khốn khổ dà dài.Thực ra hai bên Tư bản và Cộng sản đều chỉ đấu tranh về “ Quyền lợi cho giai cấp của riêng họ “, còn vấn đề Quốc kế Nhân sinh thì chưa phải là mục tiêu chính của họ.
3.- Chế độ Bình sản. Trong thời Pháp thuộc vào quảng thập niên 40 trong các xã thôn vẫn còn có chế độ Bình sản,
nghĩa là chế độ Tỉnh điền của Việt tộc xưa còn sót lại, đó là công
điền công thổ. Trong chế độ này Tổ tiên chúng ta vẫn biết tôn trọng quyền Tuy hữu tương đối, nghĩa là trong mỗi Làng xã đều có Tư điền tức là quyền Tư hữu, xã thôn vẫn có
người gìàu người nghèo, nhưng mực độ giàu nghèo không quá chênh lệch,
mỗi làng xã lại có hơn một nửa ruộng đất là thuộc công điền và công
thổ, đây là Công hữu. Làng xã sử dụng số công hữu này để
cấp phát cho những người nghèo, cô nhi quả phụ, những người tàn tật,
thất thế, mỗi người được cấp năm ba sào ruộng để họ tự cánh tác hay Rong canh ( Cho người khác canh tác để thu hoa lợi ) thu hoa lợi để tự nuôi sống, hầu không ai có thể thắt bao tử họ được, đó là cung cách bảo đảm cái ăn “để có Thực mới vực được Đạo làm Người “.Ngoài ra còn có trợ điền học điền để giúp con em trong làng đi học nữa. . .
Hai nữa bất cứ ai khi đến 50 tuổi thì đều được sung vào Hội đồng Kỳ mục để được quyền Tự do góp ý kiến xây dựng xã thôn. Đó là quyền Tự do căn bản trong xã thôn.Vào
quảng thập niên 40 ở miền Bắc và miền Trung số công điền công thổ còn
chừng 26% , còn ở miền Nam vì là thuộc địa của Pháp, quyền Tư hữu được
tôn trọng tuyệt đối, số công điền công thổ bị xâm lấn, còn lại rất ít. Ở
đây giai cấp Địa chủ đã có “ ruộng vườn cò bay thẳng cánh “. Cái nguồn
bất công ở Tây Âu đã được đem đến nơi đây theo chân thực dân Pháp. Xã
hội chúng ta ngày xưa đã biết lấy Công hữu để điều hòa với quyền Tư
hữu để có sự “ Công bằng tương đối “ cũng như để bảo đảm “ đời sống tự
Chủ “ của người dân, cũng như ai ai cũng có quyền Tự do để tham gia
viêc làng việc xã. Đây là nền tảng của Dân chủ và Nhân quyền mà không ai có thể ỷ thế gì mà tước đoạt được. Chế độ này là chế độ được xây dựng trên nền tảng Nhân sinh để bảo vệ Nhân quyền.Tuy hình thức còn thô sơ của nền nông nghiệp lạc hậu, nhưng ý tưởng này là nền tảng cho chế độ dân chủ đích thực..
4.- Cái ưu việt của chế độ Bình sản tức là lấy Công điền điều hoà với Tư điền. Nói
tóm lại một cách đại khái thì Tư Bản và Cộng sản là hai đối cực sống
nhờ nhau, vì cả hai cùng chiến đấu cho quyền lợi của hai Giai cấp đối
nghịch nhau, nhưng thực chất vẫn là quyền Tư hữu, ở chế độ Tư bản thì
là quyền Tư hữu cá nhân, còn Cộng Sản là quyền Công hữu được biến thành
quyền Tư hữu của Đảng và đấu trường là môi trường quốc tế, nếu để mất
đi một vế thì vế kia sẽ mất quân bình, bên này không tạo ra lý do cho
bên kia đi vào các quốc gia nhược tiểu để gặp nhau ở đây tìm nguồn lợi và ngược lại.
Đó là lý do tại sao ngày nay Trung cộng được các nước Tư bản giúp đỡ phát triển.Hai đối cực này cứ xung đột nhau để sống cùng nhau sống chung mà không bao giờ lập lai được thế quân bình động an hoà được.Cũng
nhờ đó mà ngày nay Trung Cộng đã trâng tráo đe doạ các tiểu nhược quốc
xung quanh và nhất là tìm mọi cách để nuốt chửng nước Việt Nam. Còn chế độ xã thôn của ta đã có ngay sự quân bình trên nền tảng hai quyền Công và Tư hữu đã được điều hoà phần nào. Đây là sự công bình xã hội tương đối, là đường lối Hoà do biết “ chấp Kỳ lưỡng đoan “ là Trung đoạn giữa hai chế độ Tư bản và Công sản.Nguyên
do của sự bất công xã hội là do con Người được sinh ra không ai giống
ai về khả năng và trí khôn. Làm sao mà mong có được sự công bằng tuyệt
đối như CS mơ tưởng.Vì
vậy cho nên con Người muốn sống Hoà với nhau tất phải biết Lưu Tâm và
Chia sẻ với nhau. Nếu cứ “ Tương tranh tương đấu “ kịch liệt với nhau
thì trước sau gì cũng sẽ đưa nhau xuống hố.
4.- Con Tốt Ttiểu nhược Quốc. Vấn
đề quan trọng của Tiểu nhược Quốc làm sao tránh được bị sử dụng làm
Con Cờ quốc tế, vì khi bàn cờ quốc tế đã giải quyết xong thì Tiểu nhược
quốc nào được dùng Sô cẩu nghĩa là đóng vai trò con Chó Rơm sẽ được
chấm dứt. Khi cần thì bện con Chó Rơm đem lên bàn Thờ cúng tế, lúc tế
xong thì phải đem đốt đi là lẽ đương nhiên.Vấn đề là những
tiểu nhược quốc tuy cần liên kết với nước lớn, nhưng đừng quá vọng
ngoại và ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước lớn một cách thiếu khôn ngoan,
mà phải luôn tự Chủ, tự Lực và tự Cường mới đương đầu mà xoay xở với thời cuộc. Vấn đề là để đồng lao cộng khổ, để mưu lợi chung, chứ không để bị đẩy làm con cờ .Đây là vấn đề khó, vì trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi không khôn ngoan sẻ mất mạng. Trong
giai đoạn đó phong trào Giải Thực do Hoa Kỳ chủ xướng đã làm cho các
nước có thuộc địa phải trả lần lần nền độc lập cho các nước bị nô lệ,
nước Việt Nam đã được Pháp trả vào năm 1946, nếu CSVN không
rước Liên Xô và Trung cộng vào để gieo rắc CS quốc tế cũng như ngụy
tạo hai cuộc chiến tương tàn, hầu “ Lợi dụng chiến tranh để làm cách mạng vô sản “, thì phía Quốc gia đâu có phải kêu gọi Thế giới Tự do giúp đỡ. Khi đã
kêu gọi Thế giới Tự do giúp đỡ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm vì tinh thần
đôc lập quốc gia đã khẩn cầu Hoa kỳ đừng đổ quân vào để làm mất chính
nghĩa quốc gia, nhưng đâu có được vì nước cờ con Tốt VN chưa đi xong,
nên giá phải trả cho tinh thần quốc gia đó là mạng sống của ba người
trong Gia đình họ Ngô kéo theo sự suy sụp của Đệ Nhất Cộng Hoà. Tiếp sau đó là ván
cờ đã chuyển hướng qua Thái Bình dương, nghĩa là giữa Hoa Kỳ và Trung
Cộng, khi quyền lợi giữa các cường quốc đã chuyển hướng thì con Tốt cản
đường không thể để qua sông, nên vai trò tiểu nhược Việt Nam phải thí.Việc rút lui của quân đội Hoa kỳ bằng cung cách nào cũng phải thực hiện. Khởi đầu của vấn nạn quốc
gia là chính người quốc gia đã bỏ nguồn gốc dân tộc mà vọng ngoại một
cách ngu ngốc, tự rước hoạ vào mà không biết, đem lại tai hại khôn
lường cho đồng bào và đất nước. Đến nay đã gần một thế kỷ,
mà Đính cao Trí tuệ đảng CSVN cũng chưa mở Lòng mở Trí ra, vẫn theo
lối đại Tham Sân Si mà lầm lũi sống mê mãi cái kiếp ngựa trâu. Trung
cộng đã 3 mặt giáp công, kẹp cổ nhân dân Việt Nam cho đến nghẹt thở. Các đoàn tàu đánh cá khắp nước nay phải nằm trong cảng để chờ chết đói, vì lãnh hải đã bị CSVN bán đoạn cho Trung cộng từ lâu rồi.Thế mà nay VC vẫn còn huênh hoang nói đến đảng, chủ quyền quốc gia, đến dân tộc!!!Bài học này chúng ta còn phải học hoài hoài, nếu còn muốn là con Người Việt Nam biết vượt qua những bước khó khăn như “ Tên Việt là Vượt qua “. Dù cho có chiến lược và chiến thuật thần kỳ nào đi nữa, mà không có những con Người tự Chủ tự Lực, Tự Cường thì không bao giờ vươn lên vực dậy được! Quốc
gia lớn nhỏ nào cũng đi tìm phúc lợi cho quốc gia họ, trong khi giao
tranh lợi tất phải đụng chạm, nếu tiểu nhược quốc không đủ khả năng
biết quyền biến để bảo vệ nền tự chủ cũng như quyền lợi riêng của mình tất phải bị đào thải. Vấn đề là phải giải quyết cho được ván bài “ Cá Lớn nuốt cá bé “. Đây là nan đề muôn thuở trong trường kỳ lịch sử nhân loại.
Tổ tiên chúng ta đã chỉ cho con đường: “ Lấy Đại Nghĩa để thắng Tham tànĐem Chí Nhân mà thay Cường Bạo “( Bình Ngô đại cáo: Nguyễn Trãi ) Không có Chí Nhân và Đại Nghĩa thì vô vọng!Vì Không
có cái Tâm Bò tát ( Chí Nhân ) thì không thể làm việc lớn. Không có
con Người Phù Đổng (Đại Nghĩa ) thì không đủ khả năng để giữ nước và
dựng nước.
Chiến lược quốc gia
1.- Khu Trù mật. Dựa vào các nền tảng trên chúng ta soi rõi ít nét vào Quốc kế dân sinh của nền Đệ nhất Cộng hoà. Khi làm chính trị thì việc chính của chính quyền là lo cho toàn dân được An cư mà Lạc nghiệp. Để
cho dân được An cư, viêc đầu tiên của chính phủ VNCH là phải ổn định
cho cuộc sống một triệu người Di cư từ miền Bắc bằng cách cho thành lập
các khu Trù mật, đây là sáng kiến có tính cách an cư để mà lạc nghiệp. Muốn Lạc nghiệp thì chính người dân phải tự lo việc an cư, họ
phải đến lập Dinh điền ở những đia điểm chiến lược để chận đứng sự xâm
nhập của CS. Công trình này đã thành công mỹ mãn. Đây là những tiền
đồn sản xuất và cũng là những pháo đài chống Cộng.(Động vi Binh, tĩnh vi Dân ). Còn mọi nơi khác trong nước thì phát động phong trào tố Cộng để tiêu diệt các ổ CS nằm vùng.Chiến
dịch này cũng rất thành công, nhờ đó mà đời sống nhân dân ở miền Nam
lúc này rất thoải mái. Miền Nam là đất trù phú chỉ cần có an ninh để người dân làm ăn được là đã có đời sống sung túc.
2.- Quốc sách Ấp chiến lược. Có lẽ từ khoảng năm 1960 trở đi ( Tôi không nhớ rõ ) là Quốc sách Ấp Chiến lược được thực hiện, đây là công trình vô
cùng quan trọng để đối đầu với chiến tranh Nhân dân của Cộng sản: Rào
ấp để bảo vệ dân, để thanh lọc CS ra khỏi thôn ấp, để tiêu diệt các
thành phần tử ở trong các mật khu đêm đêm về ấp móc nối và lấy nguồn
tiếp tế.Trong
thời kỳ ấy dân chúng không còn được ở rải rác nữa, mà được dồn vào
ấp,các ấp được rào toàn bằng cả cây tre vót nhọn, bằng cọc sắt kẽm gai,
bên trong có đào hầm hố, đây là hào lũy rất kiên cố để bảo vệ người dân và có hào lũy để dễ chặn đứng kẻ thù nhân dân.
Trong
các ấp có lực lượng Thanh niên chiến đấu, được cấp phát súng Shotgun
bắn đạn ria, không cần nhắm giỏi cũng bắn trúng, ban đêm được cấp phát
đèn pin dài cực sáng, hễ chiếu vào là những tên CS lần mò về ấp ban đêm
không thề nào chạy thoát được. Các
ấp đều được trang bị điện thoại để các ấp liên lạc bên cạnh với nhau
và nhất để liên lạc với Quận. Hễ có đụng độ ở một ấp là các ấp xung
quanh đến yểm trợ theo kế hoạch liên hoàn, và nhất là chỉ trong thời
gian ngắn là Quận trưởng sẽ mang quân đến cứu viện ngay.Nhờ
thế mà những CS ở các mật khu bị vây hãm và tiêu diệt cho tiêu hao
dần, có khi mỗi người CS trong mật khu mỗi ngày chỉ được chia một ít
gạo và chút xí muối. CS còn có kế hoạch rất tinh vi là mỗi ấp CS cho cài vào một số người chủ chốt nằm vùng, họ là con mắt là
lỗ tai là đầu não của CS trong ấp, họ ngồi yên không hoạt động, mà chỉ
nằm im, gián tiếp ra lệnh chi huy, nên rất khó phát hiện để tiêu trừ,
tuy những tay hoạt động khác có bị bắt, nhưng con mắt và tai CS trong
ấp vẫn còn.Chiến dịch Phượng Hoàng nhắm thanh lọc cho hết thành phần CS được đóng cọc trong các ấp. Đến
1963, khi ĐNCH bị lật đổ, các ấp chiến lược được triệt hạ, Chùa bỏ
hoang nào cũng có vị sư ( ? ) cạo trọc đầu trụ trì, số súng trang bị
cho thanh niên chiến đấu trước đó được thu về Tỉnh nhiều vô kể, ( Các tỉnh miền Trung ) khi đó CS tự do hoành hành khắp mọi ấp.Sau
này đổi ra phong trào ấp Tân sinh, các vị phụ trách không được hiểu
nhiều về kế sách này, chỉ làm cho có chứ không thể làm cho được. Nói tóm lại kế hoạch Ấp chiến lược là chiến lược của chiến tranh nhân dân miền
Nam đối đấu với CS miền Bắc cũng dùng Chiến tranh nhân dân. Đây là
công trình để giúp cho dân được an cư mà lạc nghiệp. Còn chiến tranh
nhân dân của miền Bắc ở miền Nam là đào đường đắp ụ, ngày vô bưng, mật
khu ẩn trốn, đêm mò ra ấp hoạt động, pháo kích vào dân lành. . .
3.- Chính sách người cày có ruộng. Vấn đề quan trong thứ hai là “ Người cày có ruộng” ở miền Nam. Sở dĩ được thực hiện ở
miền Nam là vì chế độ thực dân Pháp đã biến miền Nam thành ra một nơi
chứa nhiều bất công, rất thuận tiện cho CS vịn vào để dụ dỗ tưng lớp tá
điền đấu tranh. Những công tử Bạc Liêu với ruộng “ Cò nay thẳng cánh “
với đa số nông dân bần hàn là môi trường thuận lợi cho CS khuyến dũ. Truất phế và mua lại ruộng đất của Địa chủ cấp phát cho nông dân nghèo chính là xây nền tảng cho chế độ Dân chủ, có ruộng cày dân được ấm no và tự do thì CS hết đất sống. Đây là bước khởi đầu cho sự giải phóng nhân dân ra khỏi nghèo đói và ngu dốt. Nâng cao được vấn đề Dân sinh và Dân trí này cũng là kế sách vô cùng quan trọng để loại trừ CS.. Quả thất sau một thời gian ngắn đời sống nhân dân ở miền Nam thật là dễ thở. Điều
quan trọng nhất là chống CS không những phải nêu ra những sự sai trái
và tàn bạo của CS, mà phải đánh đúng vào điểm chính.
Việt
Nam là nước nông nghiệp ,thành phần đa số là nông dân, nếu nông dân
được có ruộng cày, lại được hướng dẫn vể công việc cải tiến sản xuất để
nâng cao dân sinh và dân trí thì phỏng những khẩu hiệu rổng tuếch của
CS có tác dụng gì. Tuy
phải chống bằng lý thuyết để cảnh tỉnh mọi người,nhưng quan trọng hơn
là phải thực hiện những cải cách thực tế để giải quyết lần lần vấn đề
căn bản là Bất công xã hội.
3.- Thành lập Quân đội quốc gia. Thứ ba là thành lập được Quân lực rất tinh nhuệ, họ
có tinh thần rất cao, nhất là một số các sĩ quan từ cấp Tá trở xuống,
họ tin tưởng sắt đá vào những giá trị cao quý:Tổ quốc, Danh dự, Trách
nhiệm. Họ đã hết mình chiến đấu cho những giá trị cao quý đó. Các Quân nhân không những phải chiến đấu ngoài mặt trận, mà quan trọng không kém là phải trực tiếp hướng dẫn nhân dân chiến đấu trên mọi trận tuyến khác. Cho đến ngày 30 tháng tư, các Tướng phần nhiều đã chạy trốn, những chiến sĩ cấp dưới còn chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng.
Vào
ngày ảm đạm đó khi chứng kiến đoàn quân vai mang súng nòng chỉa xuống
đất ,như những con rắn không đầu, lầm lũi rút lui trong cảnh tang
thương vô vọng đó, là người yêu nước, ai mà không uất hận trong lòng! Còn
tầng lớp Tướng thì phần nhiều là tướng thân với Pháp hay Hoa Kỳ hơn là
ViệtNam, tư cách và đạo đức chưa tương xứng với cấp bậc, họ không hiểu Tổ
quốc và nhân dân là gì, chiến lược chiến thuật chống cộng thế nào! Các
Tướng tinh tuý còn lại thì đã tuẩn tiết trong ngày 30 tháng Tư năm
1975 mất rồi ! Do đó mà cho đến nay đã 1/3 thế kỷ trôi qua mà cựu quân nhân VNCH chưa vơi uất hận..Họ
không thể nuốt trôi được niềm uất hận, vì chính họ tin rằng mình đã
hết lòng đem mạng sống để bảo vệ chính nghĩa mà lại biến thành phi
nghĩa, mình đang thắng ở khắp nẻo chiến trường trước mắt mà lại phải thua ở chốn Washington và Bắc kinh xa xăm.Sau vụ dội bom Bắc Việt, nghe đâu CSVN đã đầu hàng mà không được chấp nhận? Không biết thực hư thế nào ?
Những
việc đổ quân vào, những kế hoạch rút quân ra , những câu đối đáp,
những câu nhục mạ, những hành vi đi đêm thiếu liêm sỉ của một ít người
hữu trách to lớn là những điều quá nhức đầu, cứ rấm rứt hoài, cố nuốt
mãi mà đâu có trôi!
Nhưng điều đáng trách là tự nơi chúng ta, chúng ta đánh cờ mà không biết thế cờ, cứ chú tâm vào thế cờ nhỏ mà không biết đến thế cờ lớn, đến khi bị thua cờ thì la hoảng và than van cũng vô ích!
Ôn cố tri tân
Không biết những sự hiểu biết của tôi có phản ảnh được phần nào thực tế phức tạp của đất
nước chúng ta trước đây không, mục đích của chúng ta không phải là cứ
ngồi trong bóng tối mà than trách, nếu có than trách thì hảy than trách
chúng ta trước, tiên vàn chúng ta phải can đảm nhận lấy
thực tế phụ phàng đó, nuốt cho hết nhục nhã đắng cay của quốc nạn quốc
nhục hiện nay, bình tĩnh nhìn cho ra vấn đề, để tìm cho ra lối thoát. Tôn Tử đã dạy: “ Tri kỷ, tri bỉ, bách chiến bách thắng “. Có biết Ta, biết Người thì cuộc cờ mới mong thắng được.Chúng
ta là những ai, nhân dân chúng ta thế nào, bạn thù của ta ra sao? Nan
đề của con Người và Đất nước chúng ta là những gì, đáp đề của chúng ta
là làm sao, chúng ta phải làm những làm gì để giải quyết cho xong nan
đề về mọi mặt. Đây là vấn đề quốc gia đại sự phải có những bậc đức trọng tài cao và phải hợp chúng trí mới mong tìm ra giải pháp, vì vấn đề của chúng ta là vấn đề khó nhất thế giới.Tuy nhiên với tài hèn sức mọn tôi cũng mạo muội góp vài ý kiến nhỏ của kẻ xất phu hữu trách.
Nếu không vì tiểu Tâm, tiểu Trí để mưu tiểu Danh, tiểu Lợi, tất chúng ta phải để ý tới những vần đề đại loại như sau:
1.- Việc trước tiên là vấn đề con Người, vì không có con Người tốt thỉ không làm gì nên thân, mà chỉ đi phá hoại. Phải
làm thế nào để xây dựng cho được những con người Nhân chủ là những con
Người biết làm Chủ chính Đời sống mình, Gia đình mình rồi Đất nước
mình. Những con người còn có đầu óc nô lệ thì không bao giờ làm chủ nổi.
2.- Phải tìm cho ra điểm Đồng quy của những con Người Nhân chủ để đoàn kết toàn
dân, đây là điểm vô cùng quan trọng, vì không tìm ra cho ra điểm quy
tụ để ai ai cũng tự động tham gia gánh vác việc nước thì không có đủ
tổng lực để vượt qua những bước khó khăn.
3.-
Tiếp đến là phải có Chiến lược chung cho toàn dân gọi là Chủ đạo quốc
gia để cho mọi người nhắm cùng một Hướng chung mà tiến tới, rồi theo khả năng và sáng kiến riêng của thành phần mình mà đóng góp chung. (Đồng quy nhi thù đồ )
4.-
Phải hoạch định được những Phương cách để thực hiện được Chiến lược
quốc gia gọi là Chiến thuật để thực hiện được Quốc kế dân sinh. ( Kế
hoạch đem tinh thần công bình tương đối vào mọi cơ chế xã hội ).
5.- Tìm cho ra lối thoát của con cờ Tiểu nhược quốc trong công cuộc toàn cầu hoá hiện nay.
6.- Trong vấn đề chống Cộng sản thì ta phải tập trung đánh trúng và mạnh vào những tử huyệt của chúng, vấn đề chính là hại Dân và bán Nước:
a.- Vấn đề cướp đoạt quyền tư hữu của toàn dân.
b.- Vấn đề tước đoạt quyền Tự do làm Người của toàn dân..
c.- Vấn đề buôn Dân bán Nước.Đây là những vấn đề liên quan mật thiết đến quyền lợi toàn dân, nên mọi người dân đều chia sẻ và sẽ hăng hái tham gia.
Trân trọng,
Nguyễn Quang
Comments
Post a Comment