Ôn cố tri tân-The Vietnam War.
Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt sau 40 năm, kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Thế nhưng những hệ lụy về cuộc chiến này vẫn còn kéo dài cho đến tận ngày hôm nay 2015.
Lãnh thổ VN đã gom về một mối, nhưng lòng người dân Việt thì vẫn chia rẽ càng lúc càng đào sâu hơn.
Xem như đây là một tài liệu để tham khảo thêm về cuộc chiến VN.
Nhân ngày giỗ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Ngày
29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 14 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho
tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất
nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh
vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế
nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.
I – PHẢI CHĂNG MỸ BỎ RƠI?
Kể
từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu
chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000
quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ
lỗi cho nhau.
Frank Snepp in Saigon
Chính
vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi
đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải
chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3
triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng
hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai
chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt
sau khi Mỹ cắt ống tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với
“Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi
thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa
đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản
Bội VNCH.
Ⅱ – Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973.
Năm
1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA
để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu
làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới
vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân
tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến
năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một
thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của
CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và
nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại
Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau
biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông
chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai
đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành
nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA
không được phép tiết lộ.
CIA
đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông
bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội
tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách
“Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu
lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval.
Theo
Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris.
Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại
sứ Mỹ tại VN thay Bunker.
Frank
Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam
trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải
có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư
phụ. (Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out
of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of
conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch
bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Ⅲ – Nixon THẤT HỨA VỚI Liên Xô, THÁNG 8 NĂM 1974.
Năm
1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo
hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới
biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp
vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ
nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ
dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết
chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy
nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa
giữa Nixon và Liên Xô, Trung Cộng, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội
bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi
ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc
quyền hành pháp để từ chối.
Vì
vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết
với LX, TC và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để
triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ
nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon
phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà
Nội.
Nixon
chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và
Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép
Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô
hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau
khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK
buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật
Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi
vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972
đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của
Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô
sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Ⅳ – HÀ NỘI CAY ĐẮNG.
Theo
như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô
điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh VNCH
để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt
trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc
biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và
quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới
hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn
bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa
biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm
1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng
sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp
Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản
mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo
đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện
trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau
khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong
hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong
hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản
mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký
nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến
cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh
chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt
cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào,
suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỉ đô
la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không (sic).
Tướng
Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập
đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức,
trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng,
bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn
một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo
hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã
động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong
khi Miền Nam là 5,88%)
Ⅴ – HẾT ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN LIỆU.
Bắt
đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác
Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983
mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm
sau, 2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch
ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong
sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên.
“Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên
liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên,
The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm
1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu
tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc
ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi
lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một
vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent
Interval, trang 95).
Tướng
John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.
Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ
Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự
cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác
Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các
chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng
4.
Năm
1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với
Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên
(Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM.
John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch
sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên
“Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì
được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi
họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm
1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của
VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng
Viện Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm
1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là
tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho
tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng
oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm
1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974,
lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc
mừng Giáng Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham
Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có
Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm
Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng
Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp
Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá
(Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
Thiếu
Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân
khoản dự trù hơn 300 triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn
sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng
Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành
thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng
không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có
thật.
Như
vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước
Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán
sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính
trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm
1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng
nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của
Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký
của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm
Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang
146).
Ngay
sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu
Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau
chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào
Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày
đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng
của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu
quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.
Ⅵ – Và TÌNH HÌNH THỰC SỰ VÀO THÁNG 3 NĂM 1975:
-Tuần
đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao
HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt:
“Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến
chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách
chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175).
*(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of
collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could
later blame the United States for the disaster”).
–
Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước
khi ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp
tục duy trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu
vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank
Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible
to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and
Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but
precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger
không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và
với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ
không còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại
Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã
trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975.
Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.
Ⅶ – THẾ BẮT BUỘC của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Năm
1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao
Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn
sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh
thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên
ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho
chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như
Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ
lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“…
Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng
Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan
trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final
Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay
sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … .
Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục
và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối
với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).
Các
đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ
Vùng 1 cũng như Vùng 2. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia
kế hoạch của Tướng Thiệu.
Cuối
cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống
Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40
năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
Bùi Anh Trinh
Comments
Post a Comment