Madame Ngô Đình Nhu khuê danh Trần Thị Lệ Xuân-Mời qúy vị đọc để cái gì của Ceasar hảy trả lại cho Ceasar.
Qua thời gian tiếp xúc với
bà Nhu, anh có cảm tưởng như thế nào về bà ?
Cảm tưởng của tôi thì cũng như rất nhiều người đã nhận xét về bà.
Bà là một người đàn bà tài giỏi, can đảm, dám nói và dám làm. Chẳng hạn một
chuyện trong quá khứ, khi bà đưa ra đạo luật về gia đình ở Việt Nam, đề cao
nhân phẩm của người phụ nữ. Đạo luật đó được Quốc hội biểu quyết thông qua, cấm
đàn ông lấy hai vợ, và những vấn đề khác nữa, để nâng cao đời sống của người
phụ nữ Việt Nam lên. Mặc dầu hồi đó có những sự chống đối nhưng bà vẫn can đảm
vượt qua.
Một phụ nữ như thế mà chọn cuộc sống ẩn dật có lẽ không dễ ?
Tôi thấy là khi chọn lựa một cuộc sống như vậy, chắc là bà phải có
những suy nghĩ và quyết định rất là khôn khéo. Từ khi mà bà phải sống lưu vong
ở ngoại quốc sau vụ đảo chánh ngày 1/11/63 ở bên Việt Nam, gần như không có ai
nói tới bà nữa. Nhưng không phải là người ta sẽ để cho bà yên. Trường hợp nếu
bà có một cái manh động, một lời nói, cử chỉ sao đó, đương nhiên họ sẽ nói tới
rất nhiều.
Hồi xưa lúc chồng bà chết rồi thì bên Mỹ Tổng thống Kennedy cũng
bị giết, thì bà Kennedy cũng là góa phụ. Thế nhưng bà Kennedy về sau đi đến đâu
thì người ta theo dõi đến đó, người ta có những bản tường trình đầy đủ, chuyện
xấu cũng có mà chuyện tốt cũng có. Thế nhưng đối với bà Nhu thì tuyệt nhiên
không, vì bà không đi đâu hết! Bà tự giam hãm mình trong một căn phòng. Ngay cả
buổi sáng đi lễ bà cũng mặc quần áo rất kín đáo, đội mũ, che đầu… để không ai
nhận ra bà hết.
Về phần ông linh mục ở nhà thờ Saint Léon, bà đã đi lễ ở nhà thờ
đó nhiều năm rồi mà về sau ông mới biết đó là bà Ngô Đình Nhu. Ngay cả sau khi
lễ xong bà ở lại dọn dẹp, trang hoàng nhà thờ thì ông cũng nghĩ đó là một giáo
dân bình thường thôi. Mãi mấy năm sau, không biết người nào nói với ông thì ông
mới biết !
Cũng có nhiều người muốn có một tấm hình của bà lúc về già, nhưng
tôi nghĩ là chẳng có ai chụp được cái hình nào hết. Đương nhiên là bà phải già
đi, nhưng trông vẫn còn khỏe lắm và vui tươi. Tôi có nhận xét, mỗi lần bà cười
trông bà trẻ lắm, làm tôi nhớ lại những hình ảnh mà tôi được coi trên báo chí,
trông rất trẻ!
Khi bắt đầu cuộc sống lưu vong ở nước ngoài từ năm 1963, bà không có một đồng trong túi…
Khi bắt đầu cuộc sống lưu vong ở nước ngoài từ năm 1963, bà không có một đồng trong túi…
Như vậy làm sao bà mua được hai căn nhà ở Paris ?
Hai căn nhà là mãi sau này, do một bà bá tước người Ý cho. Mà bà
này cho rất là kín đáo, bà Nhu không biết. Thì bà Nhu có một số tiền rất lớn,
tôi không biết là bao nhiêu nhưng mà căn hộ đó dù ở trên tầng lầu thứ 11 nhưng
cái tòa nhà ở khu đó đắt lắm. Bà nhờ một ông cựu bộ trưởng thời chính phủ De
Gaulle mua giùm hai cái appartement.
Có nhiều người đặt câu hỏi, vì sao lại có một số tiền trên trời
rớt xuống như vậy, thì vấn đề có nguyên do của nó. Tức là Ngô Đình Trác, con
trai lớn của bà lấy một cô vợ người Ý, mà gia đình cô này là một trong những
gia đình thế phiệt, vọng tộc, giàu có nhất của nước Ý, thì từ chỗ đó mà ra.
Người ta thấy bà sống vất vưởng không có nhà cửa thì có một người cho một số
tiền nhưng ẩn danh, không nói cho bà Nhu biết. Mãi đến bốn năm sau, bà kia chết
thì bà Nhu mới biết đó là người đã cho mình tiền để mua nhà.
Xin phép được tò mò thêm một câu, tên đề trên hộp thư và
interphone tại tòa nhà nơi bà sống là bà Trần Lệ Xuân hay là bà Ngô Đình Nhu ?
Tôi nghĩ có thể bà ghi tên trên hộp thư là bà Ngô Đình Nhu, vì mỗi
lần tôi gửi sách cho bà thì tôi đề là Madame Ngô Đình Nhu, bà đều nhận được
hết.
Xin cám ơn luật sư Trương Phú Thứ từ Hoa Kỳ đã vui lòng dành thì
giờ trao đổi với RFI Việt ngữ hôm nay về bà Trần Lệ Xuân tức bà Ngô Đình Nhu.
***
Hồi-ký của Bà Ngô Đình Nhu
Nguyễn Vy Khanh
Ở hải-ngoại, từ giữa thập niên 1980, từ sau cuốn
hồi-ký của ông Đỗ Mậu, các hồi-ký về cái chết của Việt-Nam Cộng-Hòa, về cái
chết của Đệ nhất cộng hòa và anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm, về cuộc chiến
chấm dứt ngày 30-4-1975 ở miền Nam, ... đua nhau xuất-bản, tái-bản. Sử liệu thì
cũng có dù giả-chân đầy ra đó, nhưng không thiếu những lời tự biện hộ hoặc tự
đề cao cá nhân và phe nhóm; toàn là lời chót lưỡi của những con người khi có
quyền lực đã không làm gì hoặc đã nhúng tay vô chàm hay đồng lõa, nay đánh bóng
lại cái sai lầm, cái đồng lõa một thời, và nếu có thủ phạm thì toàn là người đã
chết không còn tự biện hộ hoặc phản pháo lại “đồng đội” được nữa! Và mỗi năm
đến ngày 2 tháng 11, người ta lại tổ chức tưởng niệm người đã chết, chạy theo
khí tiết người bị giết, đăng đàn diễn thuyết, ra sách, viết báo về những chuyện
tưởng chưa bao giờ nghe nhưng thực ra đã nghe đâu đó rồi! Năm nay là đã 50 năm
sau ngày đảo chánh 1-11-1963, công tội đã rõ, nhưng người ta vẫn chưa thỏa mãn,
đặc-biệt người ta mong đợi cuốn Hồi-ký của Bà Ngô Đình Nhu từ nhiều năm qua –
mong đợi có thể vì tò mò và sẵn sàng “phản pháo, đính chính, chụp mũ” hơn là vì
muốn biết Bà Ngô Đình Nhu nghĩ gì về những biến cố bi thảm đã xảy ra cho đất
nước và cho riêng gia-đình bà và chồng bà.
Và cuối cùng, sau gần 47 năm im hơi lặng tiếng,
bà viết xong tập hồi-ký ngày 22-8-2010 tại nhà riêng (Tịnh-Quang-Lâu) ở ngoại ô
Rome nước Ý, do sự thôi thúc của cô gái út Lệ Quyên và con rể Olindo Borsoi (mà
bà xem là do Chúa sắp đặt vì bà đã muốn giữ im lặng, tr. 190), và 6 tháng sau,
ngày 24-4-2011, bà qua đời tại bệnh viện ở La-Mã, tên thánh Maria (bà trở lại
đạo Công-giáo sau khi lập gia-đình), thọ 87 tuổi, sau 48 năm sống lưu vong. Hôm
2-11-2013 vừa qua tại nhà thờ giáo xứ Việt-Nam ở Paris, nhân lễ tưởng niệm 50
năm ngày qua đời của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, thứ
nam của ông bà Ngô Đình Nhu là ông Ngô Đình Quỳnh đã cho ra mắt quyển sách
tiếng Pháp La
République du Việt Nam et les Ngô-Đình ( Nền Cộng Hòa Việt Nam
và Gia Đình Ngô-Đình) mà hơn một nửa là di-cảo hồi ký của mẹ ông. Ông đã cho
biết lý do ra đời của quyển sách này như sau: “Cuốn sách được xuất bản hôm nay
có một phần hồi ức của Mẹ tôi được ghi chép từ năm 1963. Đồng thời chúng tôi có
ý muốn soi sáng một phần của lịch sử hãy còn mù mờ. Một số sai lầm về hình ảnh
của hai anh em họ Ngô mà cả bên Tây Phương lẫn đảng Cộng sản Việt Nam đã lưu
truyền. Từ quyển sách này chúng tôi muốn đem lại cái nhìn đúng đắn hơn, đồng
thời có phần đóng góp của Mẹ tôi với nhãn quan có phần huyền bí của Bà. Thế
thôi!».
Chúng tôi được một tín hữu cùng giáo xứ với bà Nhu ở Paris gởi cho một bản; trong bài này chúng tôi chỉ ghi lại những điểm đặc-biệt hoặc ít được biết, hoặc theo cách nhìn và cắt nghĩa của bà Nhu, còn phần thần học tâm linh, sẽ để một dịp khác hoặc người khác trong ngành bàn đến.
Chúng tôi được một tín hữu cùng giáo xứ với bà Nhu ở Paris gởi cho một bản; trong bài này chúng tôi chỉ ghi lại những điểm đặc-biệt hoặc ít được biết, hoặc theo cách nhìn và cắt nghĩa của bà Nhu, còn phần thần học tâm linh, sẽ để một dịp khác hoặc người khác trong ngành bàn đến.
Tập sách 246 trang nhưng phần hồi-ký do Bà Ngô
Đình Nhu viết với tựa đề “Le Caillou blanc” (Viên Sỏi Trắng) được hơn 130 trang
(tr. 109-241) kể cả phụ lục 3 bức thư viết tay chưa từng công bố của ông Ngô
Đình Nhu viết gởi cho đồng môn Ecole des Chartes ở Paris (20-4-1956, Tết 1963
và 2-9-1963) nay vẫn được giữ ở Văn khố nhà trường này. Phần đầu do hai người
con Ngô Đình Quỳnh, Ngô Đình Lệ-Quyên (tử nạn giao thông, 16-4-2012) và bà
Jacqueline Willemetz dẫn nhập với tài liệu gia-đình về lịch-sử Việt-Nam từ sau
ngày thành lập nền đệ nhất cộng hòa, ngày 26-10-1956, đến cuộc đảo chánh
1-11-1963 và sau đó.
Bà Ngô-Đình Nhu nhủ danh Trần Lệ Xuân, sinh năm
1924 tại Hà-Nội, thân phụ là Trần Văn Chương, con Tổng đốc Nam Định, mẹ là Thân
Thị Nam-Trân - với bên ngoại,
bà Nhu là cháu ngoại vua Đồng Khánh và là cháu
họ vua Bảo Đại. Bà Nhu gọi ông Bùi Quang Chiêu là “ông bác” (anh cả của bà nội)
bị Hồ Chí Minh ra lệnh giết một cách tàn ác giết hết cả nhà kể cả 6 người con
mà đứa nhỏ nhất mới 6 tuổi; cả Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cũng là anh em họ với
thân phụ bà. Bà học Albert Sarrault, thi đậu tú tài Pháp. Năm 19 tuổi, bà kết
hôn với ông Ngô Đình Nhu ở Hà-Nội ngày 30-4-1943, sau đó ông bà về sống ở Huế.
Không biết khi đặt tựa Viên Sỏi Trắng/Le Caillou blanc cho
cuốn hồi-ký, bà muốn nói thân phận bà bị lịch-sử đối xử như vậy mà vẫn trắng
trong, nhỏ bé, hay muốn tả nỗi lòng trơ như đá, bất nhẫn trước thời cuộc? Thật
vậy, trong hơn nửa tập hồi-ký, bà nói đến chuyện tâm linh, những chuyện cao
xa hơn chuyện thế tục thường tình, về sự hiện hữu của Thượng Đế và của con
người. Mở đầu hồi-ký, bà Nhu ghi lại lời sách Khải Huyền “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí
nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ ban cho man-na đã được giấu kỹ; Ta cũng
sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng, trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai
biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận” (Apocalyse 2, 17). Và thêm
lời Thánh Thư Luca : “Ai là
người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất”
(Luc 9, 48).
Bà bắt đầu hồi-ký ở chương 1, “Lý lẽ của định
mệnh” như sau: “Vào cuối
cuộc đời tôi, sau nửa thế kỷ im lặng, và vì ý nghĩa đơn thuần của nhiệm vụ, tôi
ghi lại những gì cần phải được biết. Đó là sự giải thoát cho tất cả. Không phải
để thỏa mãn tò mò nào đó, nhưng để trả lại những gì mà định mệnh đã đòi hỏi “kẻ
nhỏ nhất” của Thiên Chúa, vào thời điểm của kẻ đó. Tôi bắt đầu cuốn ký ức này,
nếu tôi có thể viết xong được, cốt để làm cho người khác hiểu được những đòi
hỏi của một chuỗi dài đời-sống đã được định sẵn trước, nhận ra rằng cuộc sống
không bao giờ có hành động trái với ý muốn của mình, mà trái lại, luôn luôn như
là phải như vậy” (tr. 112).
Như vậy, bà xem thân phận bà như viên sỏi trắng
“nhỏ bé” mà định mệnh đã đặt vào thời đó, nơi đó. Từ suy nghĩ về cuộc đời mình,
bà khám phá ra được Thiên Chúa một cách bất chợt và khủng khiếp. Cái gì thuộc
về Tạo Hóa sẽ trả lại cho Tạo Hóa để thực hiện đầy đủ và tột cùng chương trình
của con người. Định mệnh, đó là cắt nghĩa đơn giản của bà lúc này là lúc bà đã
bắt đầu cảm nhận sống những ngày tháng cuối đời, và trước nay bà sống một cuộc
sống mà bà không bao giờ nghi ngờ gì.
Bà ra đời do một bác sĩ người Pháp đỡ đẻ thay vì
là một cô mụ người Việt, ông ta nắm 2 chân trẻ sơ sinh và đánh vào mông thật
mạnh cho đến khi đừa bé khóc ré lên phản đối. Đó là khung cách bạo lực mà bà đến
với cuộc đời này, đã vậy mẹ bà lại thất vọng vì bà là cô con gái thứ hai. Sau
bà là một em trai sẽ khiến mẹ bà càng hất hủi bà - khi cha mẹ bà vào Sài-Gòn,
đã để một mình bà lại cho bà nội nhưng sinh hoạt chung với người làm, khiến bà
bị bệnh nặng. Được về sống lại với gia-đình, bà lớn lên trong tự tin một cách
tự nhiên, dễ chấp nhận nhưng cũng sẵn sàng đối đầu với thực tại, ở trường cũng
như trong gia-đình, nhưng bà không được yêu thương như chị và em trai, trở
thành đứa trẻ không thể động đến (Intouchable). Khiến về sau bà biết lúc cần
xuất hiện và lánh mặt khi không còn cần thiết, cho đến khi bà phải đối đầu với
Tây phương, thực-dân và đế quốc, bà vốn dè dặt một cách đặc-biệt. Đối đầu đòi
hỏi sự tôn trọng tha nhân, nhưng ở đời không phải lúc nào cũng vậy, bà thường
rút lui, không muốn tấn công ra mặt, cuối cùng bà chịu sự bất cảm thông hoặc ác
ý của kẻ kia.
Năm 17 tuổi, bà gặp ông quản thủ thư viện Ngô
Đình Nhu, lần đầu khi đến thăm gia-đình bà vốn là chỗ thân giao từ kinh thành
Huế. Hai người mến nhau từ việc ông Nhu đến mà cô Trần Lệ Xuân chưa chưng xong
hoa vừa đi mua về theo lệnh mẹ; cô gái đẩy ông Nhu vào phòng đợi nhỏ và dặn chỉ
được đi ra khi cô xong chậu hoa. Sau đó thì chàng tặng sách, nàng hồi thư –
được chàng tặng cho danh hiệu “Bà De Sévigné” vì thư nào cũng dài hơi và linh
hoạt. Chính ông Ngô Đình Diệm quyền huynh thế phụ (đã mất) đến xin hỏi cưới cô
Xuân cho em mình. Sau ngày cưới, cô Xuân hài lòng thoát gia-đình, đưa theo bà
vú, về nhà chồng ở Huế. Vai trò bà đã thay đổi, hết bị rẻ rúng như ở với cha
mẹ, nhất là từ khi anh cả Ngô Đình Khôi và con trai nối dòng bị Việt-minh giết,
con cái bà sẽ nối dõi tông đường. Bà vú xin thôi việc sau đó vì cảm thấy không
thiết yếu trong khung cảnh sống mới, điều mà bà Nhu sau này tiếc nuối, nhất là
thời gian bị Việt-minh bắt lên rừng và sống ở Đà-Lạt.
Bà cảm nhận rằng rừng núi Nam-Giao, một nơi
thiêng liêng độc nhất ở Việt-Nam, tượng trưng cho sự đợi chờ Thần Thánh Vạn
Năng không tên, của cả một dân-tộc, trãi qua nhiều tôn giáo. Bà đã du lịch
nhiều nơi nhưng chỉ có Nam Giao là đã cho bà ấn tượng mãnh liệt rằng thần linh
đã chúc phúc cho dân-tộc Việt. Bà không thể lường trước cuộc sống đầy bất trắc
với chồng và gia-đình chồng, nhiều lúc bà trách chồng “dối” bà (không tiết lộ
gì) khi làm chính-trị, bí mật. Ban đầu ông Nhu thường sang nhà các người anh để
trò chuyện, đến bữa ăn ông bà sang nhà từ đường phía bên kia kinh An Cựu để
dùng bữa. Một năm làm quen với Huế và đại gia-đình nhà chồng, thì bất hạnh xảy
đến cho người anh cả Ngô Đình Khôi và con trai ngày 22-8-1944. Sau đó chồng bà
biến mất, sợ rơi vào tình huống của ông anh cả và ông Ngô Đình Diệm, người anh
thứ ba, cũng đã bị Việt-minh bắt trên xe lửa từ Sài-Gòn về Huế và đưa ra nhốt ở
miền thượng-du Bắc Việt từ tháng 9-1945 đến 12-1946. Ông Diệm được thả ở Hà-Nội
nhờ chồng bà đã gặp ông Hồ, vả lại họ Hồ bí không trả lời ông Diệm được tại sao
lại giết anh cả và cháu của ông. Ông Nhu đã ra Hà-Nội lúc đó, ở nhà cha mẹ bà
và không ai biết ông làm gì lúc đó (bà Nhu không hay biết gì, mà ông Nhu cũng
không hề kể). 20 tuổi, một mình ở Huế dù có người làm, bà dần dà thấy chồng bà
không những không bảo vệ bà mà còn là một mối nguy cơ đe dọa bà và tiểu gia-đình bà
(tr. 135) – may mà bà còn có an ủi: ngày 27-8-1945, bà hạ sinh cô con gái đầu
Lệ-Thủy. Ông bà Trần Văn Chương cuối cùng bỏ Hà-Nội (villa bị tịch thu) vào ở
Huế, ông Nhu cũng trở về Huế, nhưng cán bộ cộng-sản đến nhà tìm, bà Nhu đã khéo
léo lần lữa bắt tên này chờ đến phải bỏ về và hẹn trở lại, nhưng đêm đó ông Nhu
phải bỏ trốn, và bà Nhu không có tin tức chồng trong một thời-gian dài sau đó.
Sau ngày 19-12-1946, chiến-tranh lại bùng nổ, bộ đội Việt-minh cưỡng bách
gia-đình bà Nhu phải bỏ nhà cửa sơ tán khỏi thành phố Huế theo vào vùng họ kiểm
soát, trãi qua suốt mùa Đông lạnh lẽo. Cuối cùng mẹ con bà được một linh-mục
Dòng Chúa Cứu Thế đem thuyền đến giúp trốn về Nhà Dòng, ở nhà kho nơi ông Cẩn
đang tạm trú, nhưng hôm sau bà ôm con 3 tuối theo xe vào Đà Nẵng và mua vé máy
bay quân sự vào Sài-Gòn. Tạm trú ở nhà người chị, bà Nhu vô cùng ngạc nhiên gặp
lại chồng bí mật ở nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Sau đó ông bà lên sống ở Đà Lạt, ở
nhà người chị của bà, theo bà là "thời gian hạnh phúc nhất", bà sinh
thêm hai người con trai, Ngô Đình Trác 1947 và Ngô Đình Quỳnh 1952, và cuộc
sống của gia-đình bà tại Đà Lạt tuy giản dị, trong khung cảnh hoang dã nhưng an
ninh, lúc đầu xa rời chính trị. Nhưng rồi bà thừa nhận bà đã cô độc khi ở đây
và viết: "Chồng tôi thường biến mất mà chẳng nhắn lại gì" (tr. 152).
Từ khi ông Ngô Đình Diệm, anh chồng bà, được cử
làm Thủ tướng từ Pháp về nhận chức (7-7-1954), ông bà Nhu xuống Sài-Gòn để phụ
tá. Ông bà Nhu và 3 con sống tạm nhiều nơi trước khi về ở trong Dinh Độc Lập.
Ông Nhu làm báo Xã-Hội tòa
soạn ngay trong căn nhà nhỏ hẹp. Trong lúc thủ đô Sài-Gòn tình hình chưa ổn
định, phe Bình Xuyên và tay chân của Pháp liên tục quấy phá, bà Nhu đã thành
công một việc ngoài sức tưởng tượng: nhân dịp tướng Nguyễn Văn Xuân mời ông bà
Nhu ăn ở một nhà hàng trong Chợ Lớn, bà Nhu đã hỏi thẳng ông Xuân tại sao không
cách chức tướng Nguyễn Văn Hinh tổng tư lệnh quân đội, ông Xuân đã thách thức
bà Nhu tìm cho được 5 chữ ký thì ông sẽ thuận theo yêu cầu đó. Bà Nhu tình cờ
gặp những người từ Bắc mới di cư vào, cùng họ vận động những người di cư kín
đáo tụ tập rồi giơ cao biểu ngữ trước nhà thờ Chánh tòa Sài-Gòn ngày 21-9-1954.
Dù cảnh sát Bình Xuyên được mật báo nên đã có mặt ở trại di cư trước với 2 xe
tăng, bà lái chiếc xe hiệu Panhard đến và tra hỏi tại sao cảnh sát lại cấm cản
người dân đi chợ. Đám cảnh sát bỏ đi, xong trở lại, bà lên xe rồ máy bỏ chạy
đến trước nhà thờ nơi mà những người di cư đang chờ, và họ đã giương cao biểu
ngữ ủng hộ kiến nghị của bà Nhu (đòi hỏi tướng Hinh phải từ chức). Hình ảnh và
thông tin được gởi cho tờ báo tiếng Pháp duy nhất ở Sài-Gòn. Ông Trần Chánh
Thành bộ trưởng Thông tin đã kiểm duyệt không cho báo-chí VN đăng tin đó, nhưng
báo tiếng Pháp đã đăng tải phổ biến thông tin và hình ảnh vụ biểu dương mà
không được phép của chính phủ. Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn
Văn Xuân đã phải từ chức 3 ngày sau đó, trở thành “nạn nhân” đầu tiên của bà
Nhu (tr. 165). Nội các Ngô Đình Diệm phải cải tổ, bà Nhu bị người Pháp với sự
giúp đỡ của người Mỹ, ép đưa đi ra ngoại quốc 3 tháng để Nội các cải tổ được ổn
định, và để bà Nhu không thể ra ứng cử dân biểu Quốc hội lập hiến và lập pháp
sau đó. Nhưng vô ích, vì dù ở xa, bà sẽ vẫn đắc cử, với sự ủng hộ của tập thể
người di cư. Bà sang Hoa-Thịnh-Đốn nơi ông thân bà làm đại sứ ở Hoa-Kỳ, ông đưa
bà đến ăn sáng do thượng nghị sĩ J.F. Kennedy (về sau đắc cử Tổng thống) mời,
sau đó bà ở lâu hơn ở tu viện nữ người Ý ở Hương-Cảng. Bà tận dụng thời-gian ở
đó để học thêm tiếng Anh.
Bà Nhu trở về miền Nam và vào ở trong Dinh Độc
Lập. Sau Trưng cầu dân ý 23-10-1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng
thống, mở đầu cho nền Đệ nhất Cộng-hòa, và cử ông Ngô Đình Nhu chính thức làm
Cố vấn chính-trị – với chức này, ông Nhu đề ra thuyết Nhân Vị đề cao tính siêu
việt của con người, tức sự tái sinh bởi khả năng con người hành xử Đức độ như
Thiên Chúa đã dạy (Mt. 19, 28). Theo bà Nhu, thực dân Pháp chưa buông tha, rút
người về Cam Bốt, từ nơi đó tổ chức gây rối ở miền Nam. Vụ tiếp theo là vụ ám
sát Tổng thống Diệm ở Ban-Mê-Thuột, có liên quan đến Lê Văn Kim người của Pháp
đào tạo và từng là tùy viên của Thierry d'Argenlieu, đang là chỉ huy Trường Võ
bị Đà-Lạt. Rồi đến vụ đảo chánh 11-11-1960 và vai trò của tướng Nguyễn Khánh
từng là tùy viên của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và từng tổ chức những buổi
pique-nique ở Đà Lạt có bà Nhu và Bảo Đại, Nguyễn Khánh xưng là đại diện cho
nhóm đảo chánh. Bà Nhu tin là do Pháp giật dây. Bà Nhu đã can thiệp khi thấy
tướng Khánh dùng thủ đoạn đánh điểm yếu của Tổng thống Diệm là thương người và
sợ đổ máu. Bà Nhu hối chồng hất cẳng tướng Khánh và kêu gọi quân lính trung
thành về chiếm lại đài phát thanh. Tướng Khánh do đó bị đám đảo chánh kết tội
phản bội, nhưng đã thua nên phần lớn bỏ trốn sang Nam Vang. Đại diện CIA gặp
anh em Tổng thống Diệm cam đoan là Hoa-Kỳ đã đứng ngoài vụ đảo chánh, bà Nhu có
mặt ở đó đã trách móc người Mỹ “Tôi không mong chờ các ông đồng minh, tức là
bạn, giữ trung lập trong vụ này!”.
Thái độ của bà Nhu gây chú ý của Hoa-Thịnh-Đốn.
Vụ tiếp theo là chuyến viếng thăm Việt-Nam của Phó tổng thống Lyndon B. Jonhson
ngày 12-5-1961. PTT Mỹ xuống máy bay, bất chấp nghi thức ngoại giao, thay vì
đến chào PTT Nguyễn Ngọc Thơ trước, ông đã đến thẳng bà Nhu, khiến ông Thơ phải
chạy theo sau lưng ông PTT Mỹ. Trong buổi điểm tâm sau đó do PTT Thơ mời, có cả
ngoại giao đoàn và các dân biểu, ông PTT Johnson thêm một lần gây bối rối khi
mời bà Nhu sang thăm trang trại của ông ở Texas mà bà Nhu lại từ chối với lý là
chưa có dự tính đó. Vô tình bà Nhu nói dí dỏm sẽ sang thăm nếu ông PTT trở
thành Tổng thống. Không ngờ lời nói đó khích động PTT Mỹ, ông kéo bà Nhu ra bao
lơn nhưng vô tình sức mạnh kéo tay bà Nhu lại kéo luôn phu nhân Chủ tịch Quốc
hội, ông nhìn thấy hớ hênh bèn chữa thẹn rằng muốn bà Nhu giới thiệu thắng cảnh
Sài-Gòn từ bao-lơn. Không ngờ lời nói cho qua chuyện lại thành sự thật hơn 2
năm sau đó. Năm 1964, ông Ngô Đình Cẩn - thành viên cuối cùng của dòng họ Ngô
Đình còn ở Việt-Nam, bị xử tử sau khi đã xin tị nạn chính-trị với lãnh sự
Hoa-Kỳ ở Huế lại bị giao cho nhóm đảo chánh dựng tòa án kêu án tử hình. Bà Nhu
đã viết thư yêu cầu TT Johnson can thiệp, nhưng ông đã tỏ ra “hèn hạ” (tr. 177)
- Bà Nhu từng khen ông Cẩn phụ trách cả miền Trung khiến nơi đó yên bình mà
không tốn kém gì cho chính quyền Sài-Gòn (tr. 182). Trước đó, vào mùa Thu 1963
khi sang Hoa-Kỳ “giải độc”, bà Nhu đã nhận lời mời đến thăm trang trại của hàng
xóm của Johnson, Johnson đã không có hành động gì và trong 1 lá thư duy nhất
trả lời thư bà Nhu hỏi tại sao ông ta có vẻ sợ bà, ông viết ”Làm sao tôi có thể
sợ một phụ nữ tuyệt vời như bà?”. Lá thư này về sau bà gởi lại một người bạn
đồng môn của ông Nhu ở Paris nhờ giữ khi bà Nhu dọn về Rome, đã bị một người
đánh tiếng với con trai trưởng của bà Nhu là sắp chết nên muốn nhìn thấy nó trước
khi chết, nhưng lá thư không bao giờ trở lại - về sau bà Nhu mới biết người này
làm cho tình báo Pháp.
Đắc cử dân-biểu, đến năm 1958, bà đề nghị Luật
Gia-Đình có mục-đích giải phóng phụ nữ về mặt pháp lý (một vợ một chồng, nam nữ
bình quyền cả trong quản trị, sử-dụng và phân chia gia sản, thừa kế di sản,
v.v.), đã bị đa số vẫn còn tinh thần gia trưởng, gia tộc hoặc đa thê, phản đối;
dù Hiến pháp 26-10-1956 đã nêu cao nam nữ bình quyền nhưng trong thực tế, người
phụ nữ vẫn phải phục-tùng chồng là người vẫn được xã-hội xem là giám-hộ. Bà tổ
chức Phong trào Phụ nữ Liên đới (với hình biểu tượng Ngọn đèn dầu của những cô
trinh nữ trong Thánh Kinh) kêu gọi và giúp đỡ người phụ nữ ra đời làm việc
xã-hội, thiện nguyện. Bà Nhu kêu gọi tinh thần tái dựng lòng yêu nước. Cùng
lúc, bà tổ chức lực lượng Phụ nữ bán quân sự (10-1961) tự nguyện, được huấn
luyện tự vệ, sử-dụng vũ khí và y tế thường thức. Trưởng nữ Lệ Thủy cũng gia
nhập lực lượng này từ khi 16 tuổi.
Sáng sớm ngày 27-2-1962, thêm một vụ chính biến
do 2 phi công bắn phá Dinh Tổng thống. Con cái bà bị thương và bà phải vào bệnh
viện vì muốn cứu con với bà vú của cô út Lệ Quyên. Biến cố khiến bà thêm ghê
tởm bọn thực dân (tr. 180) - bà ghi rõ vụ bắn phá Dinh Tổng thống là do thực
dân (“colon”), sau đó là căn nhà từ đường bằng gỗ của gia-đình Ngô Đình ở Huế
cũng bị phá hủy, do “la rage francaise contre le Việt-Nam que nous
représentions...”(tr. 181).
Xảy ra vụ Phật giáo, bà Nhu muốn có đại diện các
đảng phái và các nhóm xã-hội trong Ủy Ban Liên Phái, nhưng Tổng thống Diệm
không thuận vì không muốn có bà. Nhưng khi xong Thông cáo chung và bên Phật
giáo đã ký, ông Nhu lại hỏi ý kiến bà trước khi cố vấn Tổng thống ký. Bà thấy
lạ vì các đòi hỏi của Phật giáo đều là những thứ chưa bao giờ cấm, bà đề nghị
ký nhưng ghi tay thêm mấy chữ là những đòi hỏi trong đây chưa bao giờ cấm. Ông
Cố vấn đem Thông cáo chung đến buổi họp sau đó và nói lại ý vừa kể, ngoại
trưởng Phật giáo Vũ Văn Mẫu yên lặng không nói gì, nhưng Phó Tổng thống Thơ
phát biểu: ”Họ uống trà sâm còn mình uống trà thường khiến mình thành người
ngu”. Vì câu nói này mà ông Mẫu cạo đầu từ chức. Theo bà Nhu cũng ông VV Mẫu
này đến cận ngày 30-4-1975 nghe lời thực
dân ủng hộ và theo tướng Big Minh (lực lượng thứ 3), nhưngđế quốc mạnh hơn muốn
chấm chấm dứt chiến-tranh (tr. 188)!
Trước ngày đảo chánh, từ ngày 12-9-1963, bà Nhu
và cô trưởng nữ Ngô-Đình Lệ-Thủy lên đường đi “giải độc” ở Âu châu và Hoa-Kỳ;
trước khi xảy ra vụ ám sát anh em Tổng thống, bà và con gái được đông đảo cảnh
sát bảo vệ, nhưng sau đó thì bị bỏ rơi, may có một gia-đình người Mỹ do 1
linh-mục giới thiệu, đã giúp đỡ mẹ con bà cho đến khi rời nước Mỹ đi Rome. Phần
ông Cô vấn Ngô Đình Nhu, vài ngày trước đảo chánh đã gọi cậu Ngô Đình Trác đưa
2 em lên Đà-Lạt và dặn dò khi có biến hoặc ông Nhu chết, thì phải đưa 2 em trốn
vào rừng. Khi xảy ra tiếng súng đảo chánh, các cô cậu đã chạy trốn vào rừng
phía sau nhà, trãi qua một đêm trong mưa lạnh. Cả ngày hôm sau đi xuyên qua
sông rạch để tránh để lại dấu vết, và cuối cùng đến một nơi trực thăng có thể
đáp và chờ đợi. Chỉ trong vòng ba ngày, mấy đứa trẻ đã thoát khỏi sự nguy hại
và tới được Rome trước khi mẹ và chị cũng đến đó.
Ngày 15-11-1963, bà và con gái rời Los Angeles
để đi Roma sinh sống. Bị đế
quốc bỏ rơi, nhưng ở phi trường đầy phóng viên báo-chí và
truyền hình. Rồi lúc ghé Paris, bà cũng được đông đảo báo-chí phóng viên đón
như vậy, ông đại sứ Mỹ ở Paris bí không biết phải trả lời báo-chí ra sao bèn
nói “Chúng tôi có làm gì thì cũng vẫn bị nguyền rủa!”. Nhưng ít có nhà báo nào
dám nói lên hết sự thật, bà Nhu được ông nhà báo Georged Mazoyer dám bênh phía
bà, nhưng ông ta vừa được thăng chức giám đốc một nhật báo ở Paris ra ban chiều
thì liền bị xe đụng chết khi đi bộ. Bà Nhu thấy những ai đứng về phía bà đều bị
biến mất (tr. 189-190): kế đó là bà Suzanne Labin và Marguerite Higgins
(3-1-1966) – được Tổng thống Kennedy gửi sang Việt-Nam điều tra riêng, bà là
tác-giả cuốn Our
Việt-Nam Nightmare (1965), trong đó bà cho rằng biến cố Phật
giáo chỉ là một trò đánh lừa (leurre), mục-đích không vì Phật giáo mà vì muốn
lấy đầu ông Diệm và thay vì bỏ lên mâm bạc như Thánh Jean-Baptiste tử đạo, thì
nay phải quấn cờ Mỹ; và bà nhận xét các sư sãi rất rành tên các phóng viên
ngoại quốc, gọi họ bằng tên/prénom!
Vào tháng 6 năm 1964, hiệp hội báo chí Hoa-Kỳ tổ
chức mời bà Nhu và con gái Lệ Thủy sang Mỹ làm một vòng để các cơ quan thông
tin báo-chí tìm hiểu sự thật (Truth Rally) về thực trạng Việt-Nam vì các cơ
quan này không tin giải thích của Hoa-Thịnh-Đốn (tr. 71). Lúc đó nước Mỹ chuẩn
bị bầu cử Tổng thống thay thế T.T. Kennedy, chính phủ Mỹ đã từ chối cấp visa
cho 2 mẹ con bà Nhu lấy “lý do an ninh quốc-gia“. Ngày 9-5-1975, khi trả lời
phỏng vấn của đài truyền hình, bà Nhu đã tố cáo chính quyền Kennedy can thiệp
vào Nam Việt Nam là "nhằm tạo thanh thế và sự ủng hộ cho Đảng Dân chủ Hoa Kỳ". Bà cũng bình luận cảnh đại sứ Mỹ Martin
chờ trực thăng tới đón trên nóc nhà, cờ Mỹ cuộn dưới nách: “Cường quốc Mỹ dùng
để làm gì, nếu không phải là để phải trốn chạy theo họ?”.
Năm 1985 khi báo-chí Hoa-Kỳ làm kiểm điểm 10 năm
Hà-Nội chiếm miền Nam, bà Nhu đã nhận trả lời phỏng vấn cho Newsweek, nhưng các cơ
quan thông tin này đồng lõa với nhau để không ai liên lạc được với bà (tr. 71).
Bà sống lúc tại vùng Riviera nước Pháp, lúc ở nhà bên Roma, bà trả lời phỏng
vấn một lần khác để lấy tiền và vé máy bay khứ hồi cho con gái út qua thăm ông
bà ngoại ở Mỹ. Bà Monique Brinson Demery phỏng vấn bà Nhu năm 2005 đánh dấu lần
đầu tiên bà trả lời báo chí phương Tây sau một thời-gian khá lâu, phỏng vấn để
thực hiện cuốn sách về bà Nhu, Finding
the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu (New York
: Public Affairs, 2013), nội-dung cuốn sách cho thấy bà Nhu đã nói chuyện với
bà Demery với nội-dung cuốn hồi-ký.
Suốt tập hồi-ký, bà Nhu cho người đọc thấy và
hiểu rằng bà căm ghét thực
dân Pháp và đế
quốc Hoa-Kỳ(bà gọi chung là “Occident criminel”). Bà có thắc mắc là
ngoài Thánh lễ khai mạc Cộng đồng Vatican II ngày 2-12-1963 có nhắc ý lễ cầu
cho anh em Tổng thống Diệm, Tòa thánh Vatican đã không lên tiếng và không làm
gì về cái chết của anh em chồng bà (và người mà Tòa thánh giới thiệu giúp làm
giấy tờ cho căn nhà mà Đức Cha Thục mua cho mẹ con bà ở Roma lại lừa dối cướp
hết tiền gia-đình bà). Bà kể có thể đã góp phần (qua một phỏng vấn ngay trước
đó) trong việc khiến cho Hà-Nội đã phải để cho Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, cháu
của ông Nhu, ra ngoại quốc chữa bệnh và thoát cộng-sản; và hơi trách móc Ngài
đã không làm gì cho những cái chết của chồng và các anh em chồng bà.
Bà cho rằng sau ngày 2-11-1963 anh em Tổng thống
bị giết, nước Việt-Nam
rơi vào địa ngục là do các đế quốc thực dân và cộng-sản (tr.
201). Bà thêm, cái chết của Lệ Thủy con gái bà vẫn chưa được điều tra đến cùng!
Về phần người Pháp, bà gọi là “tên thực dân” (colon) và so sánh với quỷ Satan
khi dùng lời Chúa Jesus cảnh báo Thánh Phê-Rô: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư
tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của con người”
(Mt 16, 23) – vì thực dân đã lợi dụng danh nghĩa của Giáo hội để làm chuyện Ác
đã khá lâu rồi ở Việt-Nam. Bà Nhu cho người đọc hiểu rằng bao nhiêu biến cố,
đảo chánh, ám sát, v.v. thời Việt-Nam Cộng-Hòa đều là do bàn tay của thực dân
và đế quốc chủ động hết, do đó bà không nói nhiều đến những tay sai người Việt
của chúng. Bà cho rằng với những gì bà viết ra, chỉ có đám thực dân là phải tự
vấn lương tâm (tr. 190)!
Cuối cùng là những suy niệm tâm linh cuối đời
của bà; bà tạ ơn Chúa đã đoái nhìn con chiên Việt-Nam qua việc đức Hồng y tân
cử của Hoa-Kỳ đã đến La-Vang ngày 21-8-2009 dâng lời cầu nguyện “Đức Mẹ La-Vang
cũng là Đức Mẹ của quốc-gia Hoa-Kỳ và của giáo hội Công-giáo“. Và bà cảm ơn và
hiểu Chúa đã trao phó cho bà trọng trách làm mẹ và bà đã làm hết mình cho đến
cuối đời!
Trong Phần
Phụ lục, trong lá thư đề ngày 2-9-1963, 2 tháng trước ngày bị giết,
ông Ngô Đình Nhu trình bày lập trường Việt-Nam chính-thực của chính phủ của
Tổng thống anh ông (Việt-Nam của người Việt Nam!) trước âm mưu của Hoa-Kỳ đi
chung với Liên Xô cộng-sản, âm mưu đưa đến phương-tiện thôi miên, tuyên truyền,
huyền-hoặc các sư sãi rồi đẩy những kẻ này vào lửa thiêu sau khi báo cho thông
tín viên quốc tế biết để đến quay phim, chụp hình (và cản cứu người “tự
thiêu”!) (1). Từ ngày ra thiết quân luật 20-8-1963 thì hết còn tự thiêu, nhưng
2 thế lực kia lại xúi sinh viên học sinh xuống đường như đã làm ở Đại Hàn và
Thổ-nhĩ-kỳ, nhưng ông Nhu cho là thất bại vì chính quyền bắt đi học quân sự và
tẩy não chúng. Ông Nhu biết 2 thế lực đó chưa ngừng tay vì phải biện minh với
cấp trên về việc chi 20 triệu đô Mỹ (2) cho âm mưu này!
Chú thích:
1- Sau ngày đảo chánh 1-11-1963, còn có 6 vụ tự
thiêu Phật tử khác, nhưng không báo chí Tây phương nào để ý đến nữa! Và sau
ngày 30-4-1975, đã có biết bao nhiêu kỳ thị, kiểm soát, khủng bố tôn giáo và
toàn dân, tù đày, cướp của dân,... nhưng thượng tọa Trí Quang không có hành
động nào, trở thành câm, lặng, đồng lõa với cộng-sản Hà-Nội! Còn vụ Phái đoàn
Liên Hiệp Quốc đến VN điều tra về vụ gọi là «đàn áp Phật giáo», Báo cáo được
dịch ra Việt ngữ - Vi
Phạm Nhân Quyền Tại Miền Nam Việt-Nam, do Võ Đình Cường dịch, 1
nhóm Phật giáo xuất-bản năm 1966, từ tay Thích Trí Quang người đề tựa, nhưng đã
bỏ đi phần kết luận (1 thứ lừa dư luận từ cái thật, lộng giả thành như ...
thật!). Đây là Báo cáo 234 trang trình ngày 7-12-1963 của Phái đoàn với kết
luận không có đàn áp
lẫn kỳ thị tôn giáo, và những đụng độ với chính quyền chỉ là do 1
nhóm nhỏ, và có tính cách chính-trị, không phải tôn giáo. Bản báo cáo bị giấu
kín, đến tháng 2-1964, văn bản này đã được Thượng Viện Hoa-Kỳ xuất-bản.
2- Ông Nhu tiên đoán
đúng, tiếp đó là chi tiền mua chuộc mấy ông tướng Việt-Nam làm đảo chánh và
giết anh em ông ngày 2-11-1963 và sau đó là ông Cẩn, người em khác! Lou Conein
đưa 3 triệu đồng tương đương 42 ngàn đô la Mỹ cho nhóm tướng lãnh đảo chánh để
chia chác cho nhau, thật ra chỉ là những đồng bạc lẽ từ 20 triệu đô!
Bà Ngô Đình Nhu từ thời
trẻ
sôi động đến những tháng
năm ẩn dật
BBT.- Trước đây, một thời có dư luận xôn xao đàm
tiếu vể luật sư Trương Phú Thứ (hiện sống bên Seattles), sau khi đọc bài viết
của ông báo tin sắp cho xuát bản quyển "hồi ký của bà Ngô Đình Nhu".
Bởi vì sau bài viết đó có một ông linh mục tại Paris lên tiếng rằng quyển hồi
ký của bà Ngô Đình Nhu hiện nằm trong tay ông ta chứ không ai khác. Nhưng
sau khi đọc bài phỏng vấn dưới đây và so sánh với nội dung quyển sách "La
République du Vietnam et les Ngô Đình" vừa cho bán ra tại giáo xứ Paris
ngày 2/11/2013, thì chúng tôi biết bài viết của luật sư Trương Phú Thứ là đúng. Là sự thật.Cũng nhờ
đọc xong bài viết và quyển sách mà chúng tôi đoan chắc ông luật sư Trương Phú
Thứ còn nắm giữ một phó bản hồi ký của bà Ngô Đình Nhu. Chúng tôi rất tiếc
không hiểu vì lý do gì mà không có ông luật sư Trương Phú Thứ cùng tham dư bản
thảo trước khi cho in ấn. Nếu đúng, xin ông luật sư Trương Phú Thứ cho độc giả
biết lý do, đâu chừng trong bản thảo ông giữ còn có nhiều điểm đáng cho độc giả
biết rõ thêm.
Bà Ngô Đình Nhu từ thời trẻ sôi động đến những
tháng năm ẩn dật
"......Bà muốn tha thứ là vì bà là người rất sùng
đạo. Bà nói, Chúa đã tha thứ cho bà, thì bà phải tha thứ cho tất cả mọi người,
đơn giản vậy thôi. Bà không có thù oán, và không bao giờ nói nặng nhẹ đến những
người đã gây khổ đau cho gia đình bà, không nói tới một câu......" Tin bà Trần Lệ Xuân tức bà Ngô Đình Nhu, người từng được coi
là Đệ nhất phu nhân của Việt Nam Cộng Hòa trước đây từ trần tại Roma cách đây
đúng một tuần, ngày chủ nhật 24/4, đã khiến cho dư luận trong và ngoài nước hết
sức chú ý. Sau cuộc đảo chính năm 1963, hầu như không ai biết gì về bà, vì bà
sống ẩn dật, hầu như không có một tiếp xúc nào với thế giới bên ngoài. Người ta
chỉ biết là bà đang viết một cuốn hồi ký.
Sinh năm 1924 trong một gia đình danh gia thế phiệt, thân phụ là luật sư Trần Văn
Chương, thân mẫu là cháu ngoại của vua Đồng Khánh và là em họ của vua Bảo Đại,
năm 19 tuổi bà lập gia đình với ông Ngô Đình Nhu. Khi ông Ngô Đình Diệm lên làm
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, thì ông Nhu làm cố vấn chính trị, và vì ông Diệm
độc thân nên bà Trần Lệ Xuân luôn là người đứng ra tiếp các phu nhân của các vị
quốc khách.
Bà Trần Lệ Xuân cũng là dân biểu Quốc hội, chủ
tịch phong trào Phụ nữ Liên đới. Bà đã đưa ra đạo Luật gia đình cấm người đàn
ông lấy hai vợ, Luật bảo vệ luân lý và thuần phong mỹ tục, đồng thời có nhiều
hoạt động xã hội khác. Chiếc áo dài cổ hở do bà đề xướng, vào thời đó được gọi
là «áo dài bà Nhu», cũng là một ấn tượng mà bà để lại đến ngày hôm nay. Là một
phụ nữ tài giỏi, xông xáo, nhưng bà cũng có những phát biểu gây sốc làm cho
không ít người bất bình.
Tháng 10/1963, bà và con gái là Ngô Đình Lệ Thủy
đi Hoa Kỳ và Roma với dự định tố cáo âm mưu lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm của
Tổng thống Kennedy và CIA. Nhưng ngày 1/11/63 đã xảy ra đảo chánh, ông Diệm và
ông Nhu đều bị sát hại. Bà rời Mỹ với lời tuyên bố: «Tôi không thể sống ở Mỹ, đơn giản vì chính phủ Mỹ đã đâm
sau lưng tôi». Bà sống lặng lẽ ở Paris cho đến cách đây một năm sức
khỏe yếu dần, thì sang Roma với người con lớn cho đến khi mất. Một trong những
câu nói nổi tiếng của bà là: «Ai
đã có người Mỹ là đồng minh thì chẳng cần phải có kẻ thù».
Luật sư Trương Phú Thứ, người chịu trách nhiệm biên soạn và in ấn
cuốn sách của bà Trần Lệ Xuân cho biết, theo dự định thì tác phẩm này sẽ được
ra mắt vào năm 2012. Khi được hỏi, cuốn sách do chính bà viết ra hay có ai chấp
bút cho bà, ông Trương Phú Thứ nói :
Bà viết ra tự tay bà viết ra chứ không có ai
viết thay bà hết, vì bà không có liên lạc với bẩt cứ một
người nào hết. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai: các con bà ở mỗi người một
nơi. Bà viết cái này khi bà còn ở bên Paris, tức là khi sức khỏe của bà còn
tốt. Bà viết trong căn phòng appartement có một mình bà thôi, thì bà đâu có nhờ
ai viết được, bà tự viết lấy.
Tiếng Việt của bà thì kém lắm, tiếng Pháp rất là
giỏi. Tiếng Pháp bà viết còn hơn cả những người có bằng cấp về văn chương Pháp
ở Pháp. Tiếng Pháp của bà rất giỏi nhưng mà tiếng Việt thì kém lắm, thành ra bà
phải viết bằng tiếng Pháp. Thế thì bà đưa cho mình, và mình có nhiệm vụ dịch ra
tiếng Việt Nam.
Thưa anh, một nhân vật như bà Nhu thì chắc chắn nhiều người rất là
trông chờ để biết vì mấy mươi năm nay không có tin tức gì của bà hết. Như vậy
liệu cuốn sách đó có đáp ứng được mong đợi của người đọc không ?
Cái này thì tùy theo quan điểm của người đọc.
Những người nào tò mò muốn biết về đời tư của bà như thế nào, hoặc thái độ đối
xử của bà đối với những người đã gây ra những đau khổ cho bà, hoặc những người
vu oan nói xấu bà này nọ, thì không có. Bà không đề cập đến chuyện đó, vì bà
coi đấy là những chuyện không đáng để nói tới. Quyển sách của bà truyền đạt
những suy tư, tư tưởng của bà đối với thân phận con người, đối với tạo hóa, và
rất có thể là nhiều người đọc sẽ thất vọng lắm. Nhưng những cái gì của bà viểt
ra thì mình sẽ đưa ra cho công chúng như vậy thôi, mình không thể nào thêm bớt
được hết. Một dấu phẩy, một dấu chấm mình cũng không thay. Thứ nhất là bây giờ
bà chết rồi mình phải tôn trọng cái đó một cách tuyệt đối.
Như vậy đây không phải là một cuốn tự truyện ?
Không phải là tự truyện mà cũng không phải là
hồi ký. Thông thường người ta hiểu hồi ký là viết lại những chuyện đã xảy ra
trong quá khứ, những chuyện vui chuyện buồn, chuyện của một cá nhân của một con
người. Thế nhưng bà đã quên hết rồi. Bà đã sống 48 năm từ khi lưu vong ra nước
ngoài, trong một căn phòng, một chỗ ở rất nhỏ hẹp, sống một cách quá cô độc,
không tiếp xúc, không có liên lạc với bất kỳ một người nào hết. Bà chỉ đi ra
ngoài mỗi buổi sáng. Thời gian mà bà còn khỏe mạnh thì bà đi ra ngoài, đi lễ ở
nhà thờ Saint Léon.
Lâu nay vẫn có nhiều dư luận trái chiều nhau về
bà Trần Lệ Xuân. Như vậy trong sách có nói gì về những lời đồn đãi chung quanh
tính cách của bà không?
Chuyện đó thì không có. Bà Ngô Đình Nhu hay bất
kỳ một người nào trên thế gian này cũng có người ghét người thương. Không ai có
thể nói là mình được tất cả mọi người thương mến, kính phục hết, cũng có người
này gièm pha ba câu, người kia đố kỵ… Thế nhưng bà Nhu không hề động chạm, đề
cập đến bất kỳ một chuyện lớn nhỏ nào như thế. Từ khi bà chọn một cách sống, ở
một mình trong một căn phòng, tức là bà đã muốn quên hết, muốn bỏ lại đằng sau
lưng tất cả. Những chuyện lớn chuyện nhỏ, chuyện vui chuyện buồn bà bỏ hết. Bà
sống như một người khổ tu, gần gần như một người khổ tu vậy.
Ngay cả vấn đề ăn uống, bà cũng chẳng có nấu
nướng gì hết. Tôi thấy trong bếp của bà cũng chẳng có một cái nồi, cái chảo hay
thìa muỗng gì hết. Trong tủ lạnh mở ra thì độc có một vài chai nước, chỉ có vậy
thôi.
Thế thì bây giờ người ta hỏi bà ăn ở đâu, bà cũng phải ăn chứ! Thì thường thường những người Pháp ở trong chung cư đó, họ biết bà như vậy nên thường một hai ngày họ nấu đồ ăn họ mang tới cho bà.
Thế thì bây giờ người ta hỏi bà ăn ở đâu, bà cũng phải ăn chứ! Thì thường thường những người Pháp ở trong chung cư đó, họ biết bà như vậy nên thường một hai ngày họ nấu đồ ăn họ mang tới cho bà.
Còn nếu không thì bà sống như thế nào nếu bà
không ăn uống gì ạ?
Bà ăn rất ít. Có một lần bà nói với tôi, đây nè
anh Thứ à, hai ngày hôm nay tôi chưa ăn và uống gì. Thế rồi bà cười, bà nói là
vì tôi không ăn uống nên tôi không có bệnh gì hết.
Nhưng phải nói là bà rất khỏe. Bà chỉ cảm thấy
yếu từ đầu năm 2010. Mới đây thôi. Thứ nhất là vì cái tuổi già, đến đầu năm
2010 thì bà bắt đầu cảm thấy yếu. Nhưng mà cách đây chừng độ hai tháng, bà gọi
điện thoại cho tôi, tiếng nói của bà vẫn còn rất là to, rất là khỏe. Bà cũng
cười vui vẻ lắm trên điện thoại, thì tôi nghĩ là bà khỏe lắm. Thế nhưng mà sau
đó thì vì tuổi già, sức khỏe sụt xuống một cách quá mau lẹ.
Thì bà cũng qua đời vì tuổi già thôi, chứ thật
ra chẳng có bệnh tật gì. Có một cái vấn đề về sức khỏe là cái chân của bà bị
gẫy từ xưa, thành ra đôi khi cũng hơi đau đau chút chút vậy thôi, nhưng không
có đau đớn nhiều lắm. Ai đến tuổi già thì cũng bệnh như vậy thôi, cũng suy sụp
như vậy thôi, chứ không phải riêng gì bà Nhu. Có nhiều người già phải nằm trên
giường bệnh hết năm này qua năm khác. Nhưng mà bà Nhu nằm trên giường bệnh chưa
đến một tháng, khoảng độ ba bốn tuần lễ vậy thôi. Bà đi một cách rất là bình
an, như vậy thì tôi nghĩ cũng là một phước lành, một phúc đức của bà.
Và cũng có người thân chung quanh ?
À, các con cái thì như cô biết là bây giờ bà còn
hai người con trai và một cô con gái. Anh con trai lớn là Ngô Đình Trác thì có
vợ con, vợ anh người Ý. Còn cô con gái út là cô Ngô Đình Lệ Quyên thì chồng
cũng là người Ý luôn. Nhưng con trai giữa là Ngô Đình Quỳnh thì sống độc thân
một mình, không có vợ con gì hết, ông làm việc bên Bỉ.
Khi bà Nhu về La Mã, bà ở căn nhà của gia đình
Ngô Đình Trác. Nhà đó cách thủ đô La Mã khoảng 10 cây số. Cái nhà đó là nhà
trệt, không có tầng lầu, nhưng mà dưới có một cái tầng hầm. Gia đình ông Trác ở
trên, và gia đình của cô Lệ Quyên ở dưới. Họ sống với nhau cả bao nhiêu năm
trời rồi, rất là vui vẻ, rất là hòa thuận.
Khi bà yếu quá, ông Trác đưa vô trong nhà
thương… Bên đó chắc là mấy người con cũng bận rộn với vấn đề lo tang lễ cho bà,
không biết là ngày nào giờ nào nhưng mà tôi biết chắc chắn là sẽ tổ chức rất là
kín đáo, trong gia đình mà thôi.
Giám đốc giáo xứ Việt Nam ở Paris, đức ông Mai
Hữu Vinh có cho biết là nhiều người tới xin lễ cho bà…
Ở đây, ở California tối hôm qua cũng có làm một
buổi lễ để cầu nguyện cho bà Nhu, và trong nhà thờ rất đông, vì họ cũng quý mến
bà lắm. Và tôi có được thông báo là tiểu bang Oregon chiều thứ bảy này họ cũng
xin lễ ở nhà thờ để cầu nguyện cho bà. Thôi thì bà chết như vậy mà được mọi
người nhớ đến trong một cái ân tình như vậy, tôi cũng mừng cho bà lắm.
Vâng, thì thôi cũng tốt cho bà, với những sóng
gió mà bà đã trải qua…
Ông và bà Ngô Đình Nhu, năm 1956
(DR).
Bây giờ cô thấy nhé, một người đàn bà sống trong
bốn bức tường nho nhỏ, trong một căn phòng nho nhỏ, một hai ngày thì còn chịu
được. Bà sống như vậy 48 năm liền, tức là từ năm 1963 cho tới ngày bà qua đời.
Thế thì bà sống bà chỉ còn có một cái hy vọng duy nhất thôi, tôi nói là hy vọng
cũng không đúng, bà sống chỉ có một cái chờ đợi thôi, là đến một ngày nào đó
được gặp lại người chồng của bà. Bà Nhu rất yêu mến và kính trọng ông Nhu.
Như cô biết là khi mà ông Nhu bị thảm sát như
vậy, thì bà Nhu lúc đó mới có 39 tuổi. Một người phụ nữ 39 tuổi còn quá trẻ,
nhưng mà bà vẫn ở vậy. Bà ở vậy để chờ đợi đến ngày gặp ông chồng. Và khi bà
quá vãng ở cái tuổi 87, bên Việt Nam mình thì tính là 88, riêng cá nhân tôi thì
tôi mừng cho bà, thấy đó là một sự giải thoát cho bà.
Nhưng một người phụ nữ trẻ đẹp, góa chồng lúc
còn trẻ, ở cái tuổi đó mà đã từng nắm trong tay quyền lực rồi, đã nổi tiếng,
thì chọn lựa một cuộc sống ẩn dật bao nhiêu năm có lẽ là không dễ.
Bởi vậy tôi mới nói là bà có một nghị lực rất là phi thường. Bà có nghị lực cao lắm. Chứ nếu ở một người bình thường có thể họ bị suy sụp về tinh thần, mà suy sụp tinh thần kéo theo suy sụp về thể xác. Tôi nghĩ là những người không có cái nghị lực như bà Nhu thì chắc sống không có lâu được như bà Nhu đâu. Mà bà từ hồi mà phải đi lưu vong ra ngoại quốc rồi đến khi bà chết là 48 năm, nửa thế kỷ chứ đâu phải một hai tháng gì.
Bởi vậy tôi mới nói là bà có một nghị lực rất là phi thường. Bà có nghị lực cao lắm. Chứ nếu ở một người bình thường có thể họ bị suy sụp về tinh thần, mà suy sụp tinh thần kéo theo suy sụp về thể xác. Tôi nghĩ là những người không có cái nghị lực như bà Nhu thì chắc sống không có lâu được như bà Nhu đâu. Mà bà từ hồi mà phải đi lưu vong ra ngoại quốc rồi đến khi bà chết là 48 năm, nửa thế kỷ chứ đâu phải một hai tháng gì.
Mà tại sao trước bao nhiêu dư luận như vậy bà
lại im lặng ?
Vì bà đóng kín cửa, bà có nghe thấy dư luận gì
đâu! Bây giờ người ta có nói tốt hay nói xấu cho bà, bà cũng không nghe thấy.
Bà đóng cửa kín không giao thiệp với ai, không biết gì hết. Thì tôi nói như hồi
nãy là bà sống như một người nữ tu, mà nữ tu khổ hạnh lắm, chứ không phải nữ tu
thường đâu. Bên đạo Công giáo có những dòng tu họ chỉ đóng cửa cầu nguyện với
Chúa thôi, chứ chẳng có tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thì bà Nhu cũng như
thế. Đóng kín cửa không giao thiệp với ai, làm sao bà biết được ai nói xấu, ai
nói tốt cho bà. Bà không biết !
Hồi đó bà vốn là người lăng xê thời trang áo dài
cổ hở, người ta gọi là «cổ bà Nhu», nhưng mà khi anh tiếp xúc với bà thì anh có
thấy bà ăn diện không ?
Không. Khi tôi tiếp xúc với bà thường thường thì
bà hay mặc cái áo kimono của Nhật. Bà nói với tôi những cái áo kimono này là
của một vài người bạn Nhật, mỗi năm họ gửi cho vài ba cái để mặc ở trong nhà.
Còn về cái áo khoét cổ, thì khi tôi nói chuyện với bà, bà nói ở Sài Gòn nóng quá - bà lấy hai ngón tay ra dấu như cái kéo - thì tôi cắt cái cổ đi cho nó mát. Bà nói là, tôi mặc như vậy thì Tổng thống không có bằng lòng. Tôi nghĩ là về sau thì nhiều người theo cái mốt của bà Nhu cũng mặc áo dài hở cổ, thì chắc là ông Tổng thống cũng chẳng để ý đến cái chuyện đó nữa.
Còn về cái áo khoét cổ, thì khi tôi nói chuyện với bà, bà nói ở Sài Gòn nóng quá - bà lấy hai ngón tay ra dấu như cái kéo - thì tôi cắt cái cổ đi cho nó mát. Bà nói là, tôi mặc như vậy thì Tổng thống không có bằng lòng. Tôi nghĩ là về sau thì nhiều người theo cái mốt của bà Nhu cũng mặc áo dài hở cổ, thì chắc là ông Tổng thống cũng chẳng để ý đến cái chuyện đó nữa.
Có vẻ như là vì bà Nhu lấy chồng khi còn trẻ
quá, nên cả ông Diệm lẫn ông Nhu coi bà như một người em gái nhỏ thì phải ?
Có thể là đối với ông Nhu thôi, còn đối với ông
Tổng thống là đâu ra đó, trên dưới lễ phép đàng hoàng. Một người thân cận với
Tổng thống là nghị sĩ Lê Châu Lộc, vốn là tùy viên, cũng xác nhận mỗi lần bà
Nhu muốn vào gặp Tổng thống là phải ăn mặc chỉnh tề, và phải xin sĩ quan tùy
viên vào trình với Tổng thống. Tổng thống cho vào gặp thì mới được gặp, còn
không thì bà vẫn vui vẻ ra về như thường. Tức là không có cái chuyện vì bà nhỏ
tuổi mà bà hành xử thiếu tôn ti trật tự, vì gia đình của họ l&a
Comments
Post a Comment