Tướng hát bộ, tướng cải lương, tướng phường chèo-Mời qúy vị đọc và tuỳ nghi.

 
Co   Ba tư Nết ,sau khi qua tỵ nạn ở hoa kỳ,co" 1 vị Tướng
VNCH mất ,1 số tướng tá muôn đăng báo chia buòn co goi ph cho DT
Khiêm,nhưng lại gặp bà Tư Nêt,bà đồng ý chia buồn vơi danh nghia: OB T
T Khiem,Khong có title gi cả
Bà no"i :thất trận qua đay rôi Tướng tá gì nưã,đừng chọc chun'g chưĩ"
Bài baó này lâu quá rồi,không biết tôi nhớ co đun'g không?
IT 'ra thì cung còn liêm sỷ
NT2 Lê văn Đồng


Tướng Trần Thiện Khiêm (phản tướng,HÈN tướng,TAY SAI của CIA/US)

Nắm vai chánh trên sân khấu chính trường Đảo Chánh 1/11/63 .


Sơ lược tiểu sử của Ông Tướng kiêm Thủ Tướng …
Tuần chay nào cũng có nước mắt”:
Ông ta sinh ngày 15 tháng 12 năm 1925 tại Châu Thành, Long An, trong
một gia đình điền chủ giàu có. (Nhưng trong một cuộc phỏng vấn của ông
nhà báo Giao Chỉ tức cựu Đại Tá Vũ Văn Lộc với ông…Tượng Đái), Ông Đại
Tướng kiêm Thủ Tướng, nickname “Anh Tư mắt kiếng”. Năm nay, năm 2014,
ông đã 89 tuổi, cái tuổi… sắp sửa.. đi “cưới ”… chị Sáu Tấm!!. Trong
buổi phỏng vấn nầy, ông ta ăn mặc rất bình dân, ông nói rằng ông ta
quê quán tại Tân An(, Quận BẾN TRANH MỸ THO) gia phả từ ông nội của ông trở về trước gốc gác tại Hải Dương/ Bắc Việt, còn bên ngoại, từ bà ngoại trở về trước của ông là người gốc Quãng Ngãi, Ba Tơ/ Mộ Đức, gián tiếp nhận xằng rằng “đồng hương, đồng khói” với tên…Đồng Vều, Thủ Tướng Bắc Việt Cộng??- 
Năm 1946, 21 tuổi, quân đội Pháp đưa ông đi học khóa đào tạo sĩ quan
dành cho người Việt tại Đập Đá/ Huế. Ông tốt nghiệp năm 1947 với cấp
bậc Chuẩn úy. Sau khi tốt nghiệp, ông phục vụ trong quân đội Pháp (
thời điểm nầy, tướng Jean de Lattre de Tassigny, là người chỉ huy cao
nhất của lực lượng Liên hiệp Pháp tại Đông Dương giai đoạn 1950-1951)
Tháng 7 năm 1948, ông được chuyển sang lực lượng Vệ Binh Nam Phần làm
sĩ quan tập sự, với cấp bậc Thiếu úy.(Một thời gian sau, ngày 11 tháng
5 năm 1950, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố chính thức thành lập Vệ
binh Quốc gia Việt Nam). Khi Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành
lập, ông chuyển ngạch phục vụ và trở thành sĩ quan chính thức với cấp
bậc Trung úy trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, ông được điều làm chỉ
huy một đơn vị đồn trú tại Mông Thọ, Rạch Giá. Tại đây, ông làm quen
và kết hôn với bà Đinh Thị Yến ( về sau Bà nầy đổi tên lót thành Đinh
Thúy Yến, tên gọi ở nhà là “Tư Nết”, con gái một đại điền chủ vùng
Rạch Giá, bà nầy đã qua đời ngày 17 tháng 11 năm 2004).
Năm 1951, ông được điều đi đồn trú tại Tiểu khu Hưng Yên, Bắc Việt với
cấp bậc Đại úy.
Tháng 7 năm 1952, ông được thăng cấp Thiếu tá, Tham mưu trưởng Đệ nhị
Quân khu (phụ trách Trung phần)
Hai năm sau, tháng 7 năm 1954, ông được thăng Trung tá, Tham mưu Phó
Tiếp vận Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Do có công ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo
Đại, tháng 8 năm 1955, ông được thăng Đại tá, giữ chức Xử lý thường vụ
Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Tháng 8 năm 1957, ông được cử đi tu
nghiệp khóa Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth,
Kansas, Hoa Kỳ.
Năm 1958, ông được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 4 Dã chiến. Sư đoàn 4 dã
chiến sát nhập với Khu chiến thuật 21 để trở thành Sư đoàn 21 Bộ binh.
Ông được cử làm Tư lệnh Sư đoàn, trách nhiệm đồng bằng sông Cữu Long.
Tháng 10 năm 1960, khi nổ ra cuộc phản loạn tháng 10 năm 1960 do Đại
tá Nguyễn chánh Thi cầm đầu, ông đã chỉ huy Sư đoàn 21 kéo về Sài Gòn
để giải vây và “cứu gía” cho Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Do hành động giải vây và “cứu gía” trên, ông rất được Tổng thống Ngô
Đình Diệm tín nhiệm. Tháng 12 năm 1962, ông được thăng cấp Thiếu tướng
và giữ chức Tham mưu trưởng Liên quân.
Tuy vậy, do bản tính phản trắc và xảo trá, tướng Khiêm lại là một
trong những tướng lĩnh chủ chốt tham gia cuộc đảo chính Tổng Thống Ngô
đình Diệm một năm sau đó, tháng 11 năm 1963. Với cương vị Tham mưu
trưởng Liên quân, tướng Khiêm được cho là có những hành động tích cực
như vạch kế hoạch và điều động các đơn vị tham gia đảo chính vào Sài
Gòn cũng như cách ly các đơn vị trung thành với tổng thống Diệm. Do
công lao này, sau khi đảo chính thành công, ông được Hội đồng tướng
lĩnh thăng cấp Trung tướng, giữ chức Ủy viên quân sự trong Hội đồng.
Sau cuộc đảo chính, ông được điều vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 3,
kiêm Tổng trấn Sài Gòn thay cho tướng Tôn Thất Đính. Tuy nhiên, chưa
bằng lòng với “bổng lộc ”nầy, chỉ một tháng sau, ông cùng tướng Nguyễn
Khánh đã thực hiện cuộc "chỉnh lý" chớp nhoáng, cướp quyền của Hội
đồng Quân nhân Cách mạng, đưa tướng Khánh lên nắm quyền tối cao. Để
trả công, ông được tướng Khánh giao giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng,
kiêm Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tháng 7 năm
1964, ông được thăng cấp Đại tướng. Trong một thời gian ngắn, từ 27
tháng 8 đến 8 tháng 9, ông tham gia Ủy ban lãnh đạo quốc gia cùng
Tướng Nguyễn Khánh.
Tuy nhiên, mâu thuẫn quyền lực đã nảy sinh với tướng Nguyễn Khánh. Để
bảo đảm quyền lực tuyệt đối và cũng e dè với Khiêm, Tướng Khánh cho
rằng Khiêm đứng đằng sau cuộc binh biến của tướng Dương Văn Đức ngày
13 tháng 9 năm 1964, ngày 24 tháng 10 năm 1964, ông bị tướng Khánh
tước mọi chức vụ và được "cử" làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ,
thực chất là một hình thức đẩy đi lưu vong ở nước ngoài.
Mãi đến sau khi Nguyễn Văn Thiệu đã loại trừ được vây cánh của tướng
Kỳ, lúc đó là Kỳ là Phó tổng thống, tháng 5 năm 1968, ông mới được
triệu hồi về nước và được giao chức vụ Tổng trưởng Nội vụ trong chính
phủ Trần Văn Hương. Đầu năm 1969, ông được cử làm Phó Thủ tướng. Tháng
9 năm 1969, ông được Tổng thống Thiệu chỉ định làm Thủ tướng và lập
chính phủ mới. Khi tướng Nguyễn Văn Vỹ bị cách chức Tổng trưởng Quốc
phòng năm 1972, ông kiêm nhiệm luôn chức vụ này cho đến tận tháng 4
năm 1975.
Chúng ta cùng nhìn lại vai trò của Tướng Khiêm trong ba biến cố để
thấy được chỗ nào tướng Khiêm cũng dự phần, “Tuần chay nào cũng có
nước mắt”, chỗ nào có "Lộc" thì cũng có Khiêm dự phần… chia chác ( như
một câu nói dân gian….“thóc đến đâu.... bồ câu đến đó” !!),và chỗ nào
Khiêm ….cũng …“Ngậm miệng ăn tiền”, từ cuộc phản loạn 1960 đến…. đảo
chính 1963, rồi…“Chỉnh lý” 1964.
Cách hành xử của Trần Thiện Khiêm trong cuộc đảo chính Tổng Thống Ngô
Đình Diệm tháng 11/1963 đã thêm một lần cho thấy rõ bản chất thâm hiểm
và xảo trá này của Khiêm. Tuy ham hố quyền lực và lợi lộc, nhưng Trần
Thiện Khiêm không bao giờ liều lĩnh "chơi xả láng", ngay cả trong
những thời điểm dầu sôi lửa bỏng nhất, Khiêm luôn luôn thủ sẵn “phương
châm chiến lược” thường có : … “Cỏ đuôi chó” (gío chiều nào ngã theo
theo chiều đó), để phòng khi mọi sự không diễn ra theo hướng dự tính
sẽ còn vẫn giữ “đường binh – ( thối lui ) ”, trong trường hợp nầy là
vẫn được sự tin dùng của Tổng Thống Diệm nếu cuộc đảo chánh thất bại.
Trong số những sĩ quan quân đội Sài Gòn đứng ra tổ chức đảo chính
tháng 11/1963, Trần Thiện Khiêm, khi đó đang là thiếu tướng, chỉ đứng
ở vị trí thứ ba, sau Trung tướng Dương Văn Minh và Trung tướng Trần
Văn Đôn (trong số này còn có Thiếu tướng Mai Hữu Xuân, Thiếu tướng Tôn
Thất Đính, Thiếu tướng Nguyễn Khánh, Thiếu tướng Lê Văn Kim, Thiếu
tướng Trần Văn Minh, Thiếu tướng Phạm Xuân Chiểu, Thiếu tướng Lê Văn
Nghiêm, Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, Đại tá Đỗ Mậu, Đại tá Dương Ngọc Lắm,
Đại tá Nguyễn Văn Quan, Đại tá Nguyễn Hữu Có, Đại tá Trần Ngọc Huyến,
Đại tá Nguyễn Khương và Đại tá Đỗ Cao Trí).
Các nhân viên CIA ở Sài Gòn đã giật dây và điều khiển những viên sĩ
quan phản trắc này một cách chặt chẽ thông qua tướng Khiêm. Khi được
CIA dọ ý, chính tướng Khiêm đã gợi ý người Mỹ nên thăm dò ý kiến cả
tướng Minh Lớn và tướng Đôn cho chắc ăn. Kế hoạch đảo chính đã được
tướng Khiêm soạn thảo dưới sự góp ý và chỉ đạo của Trung tá Lucien
Emile Conein và cũng chính Conein đã dùng kế hoạch đó làm lý lẽ để
chiêu dụ tướng Đôn và tướng Minh gật đầu tham gia (hai viên trung
tướng này chỉ đồng ý cầm đầu đảo chính sau khi biết tướng Khiêm cũng
đã đồng ý tham gia).
Không ra mặt nhưng thông qua Conein, tướng Khiêm đã sắp xếp cho tướng
Đôn nhận nhiệm vụ phối hợp hành động của các lực lượng tham gia đảo
chính, còn tướng Dương văn Minh giữ vai trò lãnh đạo “Hội đồng quân
nhân cách mạng”. Mọi sự đều nằm trong những tính toán thâm sâu của
Trần Thiện Khiêm: Khi cuộc đảo chính thuận buồm xuôi gío, kiểu gì
Khiêm cũng được chia phần hậu hĩnh, còn nếu chẳng may đổ bể thì vẫn có
thể đóng vai trò vô can, vì trong con mắt của đại bộ phận chính giới
Sài Gòn khi đó, tướng Khiêm được coi là người rất được Tổng thống Ngô
Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu tin cậy và trọng dụng.
Vợ ông ta, Đinh Thúy Yến, cũng hoạt động rất gần guĩ với "đệ nhất phu
nhân" Trần Lệ Xuân trong ban chấp hành Phong trào phụ nữ liên đới
trung ương.. Bà Yến đã chết ngày 17/11/2004 ở Virginia.
Cả Tổng Thống Diệm và ông Nhu đều không ngờ rằng họ đã "nuôi ong tay
áo, nuôi khỉ dòm nhà", và cũng không ngờ rằng Khiêm cũng chính là một
“ Lữ Bố thời đại ”, khi hết lòng nâng đỡ và tin cẩn Trần Thiện Khiêm
như thế. Bản thân tướng Khiêm trong ngày 1/11/1963 đã chọn cách hành
xử cực kỳ kín kẽ, mặc dù chính ông ta chính là người điều hành chủ yếu
trong cuộc đảo chính.
Vào khoảng 1:25 trưa ngày 01/11/1963, sau khi các viên sĩ quan cao cấp
chủ chốt đã tụ họp với nhau tại Bộ Tổng tham mưu, nội bất xuất, ngoại
bất nhập, tướng Khiêm tới văn phòng và 5 phút sau, tin đảo chính bắt
đầu loang ra. Rất nhiều viên tướng, kể cả tướng Minh và tướng Đôn, đã
phải vào gặp tướng Khiêm tại đó. Cùng ở đó với tướng Khiêm là Trung tá
CIA Conein.
Tới 5h sáng 2/11/1963, binh sĩ trong dinh Gia Long kéo cờ trắng đầu
hàng, sau khi được lệnh bằng điện thoại của tổng thống. Lúc này, có lẽ
Ngô Đình Diệm vẫn nghĩ rằng có thể tin cậy được ở một viên tướng từng
chịu nhiều ân sủng và bổng lộc của mình là Trần Thiện Khiêm.
Nên tới 6h45', Ngô Đình Diệm đã gọi điện thoại đến cho tướng Khiêm và
thông báo rằng, ông ta đang cùng Ngô Đình Nhu ẩn náu tại nhà thờ cha
Tam thuộc khu vực Chợ Lớn và yêu cầu đem xe đến đưa về Bộ Tổng tham
mưu gặp tướng Minh Lớn và tướng Đôn, mà ông ta cho là chủ mưu đảo
chính để điều đình. Ngô Đình Diệm đã không ngờ rằng, chính Trần Thiện
Khiêm theo lệnh từ Washington đã kín đáo ra lệnh cho thuộc hạ hạ sát
anh em Diệm - Nhu trên đường về Bộ Tổng Tham Mưu.
Về sau, không chỉ một lần, tướng Khiêm đổ cho một mình tướng Minh
trách nhiệm về vụ hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô
Đình Nhu. Tuy nhiên, nhiều nguồn tư liệu lại chứng minh điều ngược
lại: Không chỉ tướng Minh mà cả tướng Khiêm đều đã nhận được "sát thủ
lệnh" từ Trung tá Conein, lúc đó đang ở trong văn phòng của tướng
Khiêm. Các sĩ quan khác, kể cả tướng Đôn, đều đã bị bất ngờ khi thấy
xác của anh em Diệm - Nhu được chở về Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài
Gòn trên chiếc xe M113 lúc 10h ngày 2/11/1963.
Trên người Ngô Đình Diệm vẫn là bộ complet màu xám sậm, còn xác Ngô
Đình Nhu ở trong bộ complet màu hơi nâu tím. Cả hai đều bị trói quặt
tay ra sau lưng, nằm nghiêng trên sàn xe, máu me dầm dề…
Khám nghiệm ở bệnh xá Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn cho thấy, cả
Ngô Đình Diệm lẫn Ngô Đình Nhu đều đã bị bắn từ sau gáy ra trước. Xác
Ngô Đình Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị đánh đập trước khi bắn.
Xác Ngô Đình Nhu bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu…
[Điều đáng khinh là mặc dù tay đã vấy máu anh em Tổng Thống Ngô đình
Diệm, nhưng về sau, Trần Thiện Khiêm vẫn đủ sự trơ trẽn để thanh minh
với bạn bè: "Tôi luôn kính trọng và thương mến Tổng thống Diệm. Tình
hình cuối năm 1963 biến chuyển quá nhanh chóng; nếu tôi không thay đổi
ý ủng hộ nhóm lãnh đạo đảo chính, tôi không còn sống sót tới giờ này"
(?!) !!!]
Ngày 3/11/1963, các viên tướng trong cái gọi là Hội đồng quân nhân
cách mạng đã ngồi lại cùng nhau "chia lộc". Họ ra quyết nghị tạm ngừng
Hiến pháp 26/10/1956 và giải tán Quốc hội. Các ghế chủ chốt trong Hội
đồng được chia như sau: Tướng Minh Lớn giữ chức Chủ tịch; tướng Trần
Văn ôn làm Đệ nhất Phó chủ tịch; Trung tướng Tôn Thất Đính làm Đệ nhị
Phó chủ tịch. Chức Tổng thư ký kiêm Uỷ viên ngoại giao được giao cho
Trung tướng Lê Văn Kim. Tướng Khiêm chỉ được giao cho chức uỷ viên
quân sự. Bổng lộc được chia phần kém hơn, điều này hiển nhiên không
làm cho tướng Khiêm (vốn thực sự đã là người cầm chịch trong các diễn
biến đẫm máu của cuộc đảo chính) hài lòng.
Lúc nầy, các viên tướng trong “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng 01/11/63”,
vẫn cảm thấy e ngại tướng Khiêm, nên tới ngày 5/1/1964, nên đã tiến
hành một cuộc chia lại quyền lực, đẩy Trần Thiện Khiêm (lúc này đã đeo
lon trung tướng), xuống làm Tư lệnh Quân đoàn III. Các vị trí quan
trọng đều được giao cho các viên tướng khác: tướng Tôn Thất Đính giữ
chức Tổng trưởng nội vụ; tướng Đỗ Mậu làm Tổng trưởng thông tin; tướng
Trần Văn Đôn làm Tổng trưởng quốc phòng kiêm Tư lệnh quân đội; tướng
Lê Văn Kim là Tổng tham mưu trưởng; tướng Nguyễn Văn Quang làm Giám
đốc Nha An ninh quân đội.
Lòng đầy bất mãn, lại được trợ giúp bởi CIA, tướng Khiêm đã xúi tướng
Khánh, làm một cuộc chỉnh lý vào ngày 30-1-1964 với lý do Hội đồng
quân nhân cách mạng có nhiều gương mặt "chủ trương thân Pháp và trung
lập", đã gây nên tình trạng suy sụp trên chính trường Sài Gòn. Khánh
làm một cuộc “chỉnh lý”, Dương văn Minh được cho về vườn. Trong chính
phủ mới do tướng Khánh lập ra, tướng Khiêm được giao cho chức Tổng
trưởng quốc phòng kiêm Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn mà người
ta cho là cũng hữu danh vô thực.
Tuy nhiên, chính phủ của tướng Khánh đã không thể làm cho chính trường
Sài Gòn bớt bất ổn. Tướng Khiêm vẫn tìm mọi cách để làm mọi sự trở nên
rối rắm hơn. Cực chẳng đã, ngày 16/8/1964, tướng Khánh đã phải triệu
tập một buổi họp các viên tướng tại Vũng Tàu để ban hành cái gọi là
Hiến chương Vũng Tàu và theo đó, tướng Khánh nhảy lên làm Chủ tịch
nước Việt Nam Cộng hòa. Hội đồng quân nhân cách mạng được đổi thành
Hội đồng quân đội cách mạng.
Cũng theo Hiến chương Vũng Tàu, tại Sài Gòn sẽ có một quốc hội lâm
thời gồm 100 đại biểu dân sự và 50 đại biểu quân sự. Tuy nhiên, Hiến
chương Vũng Tàu cũng chẳng thể đoàn kết được đám tướng lĩnh tay sai
ngoại bang và tham lam vô độ. Tình hình trong chính thể Việt Nam Cộng
hòa vẫn rối ren. Bùng nổ hàng loạt cuộc biểu tình của sinh viên, học
sinh và các tầng lớp nhân dân khác. Tại nhiều nơi, tín đồ Phật giáo và
Thiên Chúa giáo xung đột nhau.
Rốt cuộc, ngày 27/8/1964, cái gọi là Hội đồng quân đội cách mạng sau
khi phải ra tuyên cáo thu hồi Hiến chương Vũng Tàu, đã bầu lên một tam
đầu chế gồm có tướng Minh, tướng Khánh và tướng Khiêm. Tướng Khiêm lúc
này đã mang quân hàm đại tướng. Một Hội đồng lãnh đạo quốc gia đã được
lập ra.
Theo “scenario” do người Mỹ đạo diễn, "chỉnh lý" xong sẽ có một chính
phủ mới mà trong đó, tướng Khánh sẽ là Quốc trưởng, còn tướng Khiêm là
Thủ tướng. Với một chính quyền Sài Gòn như thế, Washington hy vọng sẽ
danh chính ngôn thuận hơn trong việc đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam
tham chiến. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, tuy cảm thấy tự tin hơn ở mình,
tướng Khánh lại bắt đầu nghĩ khác, lo lắng tới hậu họa khi có tướng
Khiêm xảo quyệt ở quá gần bên cạnh. Tướng Khánh tìm mọi cách để củng
cố quyền lực cá nhân, mặt khác, đã âm thầm loại dần các tay chân thân
tín của tướng Khiêm ra khỏi những chức vụ quan trọng. Trong hoàn cảnh
này, tướng Khiêm dĩ nhiên không chịu khoanh tay thúc thủ, Tướng Khiêm
gợi ý cho tướng Dương Văn Đức và Đại tá Huỳnh Văn Tồn làm loạn ngày
13/9/1964 và xúi giục cho các tín đồ Phật giáo biểu tình nổi lên chống
Khánh. Tướng Khánh đã dọa Khiêm "Tôi không bảo đảm cho sinh mạng ông ở
đây được, do đó, tôi bổ nhiệm ông vào chức đại sứ ở Hoa Kỳ…". Mặc dù
rất tức tối nhưng Trần Thiện Khiêm cũng phải nhận đi làm đại sứ ở Mỹ,
sau đó là đại sứ ở Đài Loan như câu nói dân gian lúc bấy giờ ở miền
Nam VN : “Được làm vua, thua làm đại sứ”!!
Từ nước ngoài, tướng Khiêm vẫn duy trì liên lạc với Nguyễn Văn Thiệu
chặt chẽ. Khi tướng Thiệu với sự trợ giúp của Mỹ hạ bệ được tướng
Khánh năm 1965, Trần Thiện Khiêm đã hồi hương để diễn một vai mới hơn
trên chính trường Sài Gòn, nơi mà quyền quyết định tối thượng thực ra
là nằm trong tay các ông chủ Mỹ.
Người tiết lộ bí mật Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm là người của CIA là
cựu đại tá Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của Ðại tướng, và cũng theo
ông Phạm Bá Hoa thì chính Ðại Tướng Khiêm mới là người chủ chốt cuộc
đảo chánh 1.11.1963! Còn ông Nguyễn Văn Ngân, (cựu Bộ Trưởng Kinh Tế
Tài Chánh dưới thời TT Nguyễn văn Thiệu) thì cho rằng chính Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đã khẳng định Ðại tướng Trần Thiện Khiêm là tay chân
của CIA và là người chủ chốt trong cuộc lật đổ chế độ Ðệ Nhất Cộng
Hòa, chịu trách nhiệm cái chết của 2 anh em cố Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm!
Để tạm kết thúc phần I, của loạt bài viết nầy, tôi xin ghi lại lời của
Tổng Thống Johnson trong cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện
Johson Library ở Austin, Texas, công bố ngày 28 tháng 2 năm 2003, Tổng
Thống Johnson đã gọi các tướng miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ thuê mướn
đảo chính và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là …."a goddam bunch of
thugs“ (một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rũa) - bọn côn đồ - ( thugs)
- qủa thật là chính xác vô cùng !!! -

Ctsq Nguyễn văn Sơn /1728

Comments

Popular posts from this blog

Madame Ngô Đình Nhu khuê danh Trần Thị Lệ Xuân-Mời qúy vị đọc để cái gì của Ceasar hảy trả lại cho Ceasar.