Ôn Cố Tri Tân-Mời qúy vị đọc bài viết của Thẩm Phán Phan Thiết Nguyễn Kim Khánh-
Tết Mậu Thân 68 CS chiếm Huế 26
ngày . Nhóm SV tranh đấu nằm vùng theo CS cho treo các tấm Banner :
" Tinh thần Cách Mạng
1-11- 63 BẤT DIỆT " , hung hăng tàn sát dân lành vô tội.
Huế tang thương trong máu lửa ngập trời ...với hơn bảy ngàn nhân viên chính phủ , cảnh sát và thường dân bị chôn sống.
Sau Tết Mậu Thân , dân Huế kinh nghiệm đau thương, đã sáng mắt ra và tự đó
gọi
Thượng
Tọa
Thích Trí Quang là " Sư Hổ
Mang "
On Tuesday, March 8, 2016 8:03 PM, " hungthe
hungthe42@yahoo.com wrote:
Kính chuyển quývị, baì viết rất giá trị đọc cuả T/g thẩm phán PhanThiết Nguyễn Kim Khánh, ht
Đệ nhất Cộng Hòa có kỳ thị Phật giáo không ?
Phật giáo Thống nhất đã đòi: Một trong năm nguyện vọng của
Phật giáo đồ" là yêu cầu chế độ Ngô Đình Diệm để cho tăng ni được tự do
truyền đạo và hành đạo".
Nhưng họ lại không đưa ra được bằng chứng nào cụ thể chứng minh
chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra những khó khăn hoặc ngăn cản việc truyền đạo
hay hành đạo.
Ngược lại người ta có rất nhiều bằng chứng, chứng minh đạo Phật
đã phục hưng rất mạnh trong chín năm cầm quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Trước nhất, là số chùa được xây cất.
- Trong cuốn "Our Vietnam Nightmare" bà
Maguerite Higgins cho biết:
" 1275 ngôi chùa được xây cất, 1295 ngôi chùa
được trùng tu dưới trào Ngô Đình Diệm".
- Theo cụ Đoàn Thêm và
cụ Mai Thọ Truyền thì trước khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, Nam
Việt Nam chỉ có 2206 ngôi chùa, đến năm 1963 số chùa tăng lên thành
4766 ngôi. Nhiều ngôi chùa được quốc gia trợ cấp tiền bạc để xây
cất.
- Về các sở văn hóa, trước
khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, đạo Phật chưa mở trường học. Dưới chế
độ Tổng thống Ngô Đình Diệm, hệ thống Trung tiểu học Bồ Đề ra đời. Đỗ Mậu cho
biết năm 1970 Phật giáo có 160 trường trung tiểu học trong cả nước. Đa số
trường này được xây cất trước ngày 1.11.1963.
Đọc những thành quả trên, liệu người ta có dám kết luận Tổng
thống Ngô Đình Diệm và chế độ của ông đã "kỳ thị Phật giáo" không ?
Xét chung trên bình diện chính sách quốc gia cũng như thành quả
của đạo Phật trong chín năm cầm quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm, người ta
không tìm ra được bằng cớ nào chứng tỏ Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính quyền
của ông kỳ thị đạo Phật, kỳ thị giáo hội Phật giáo, kỳ thị tín đồ đạo Phật.
Khi tôi đưa ra một vài vấn đề để viết bảng so sánh dưới đây, tôi
không đề cao Công giáo hay miệt thị Phật giáo. Tạm thời tôi chỉ nói về:
Yếu tính đạo giáo
- Đạo Phật không hẳn là một tôn giáo, vì tôn giáo phải có Thần
Linh .
Đức Phật không phải là Thần Linh. Ngài chỉ là bậc Đại giác, bậc
Chánh Đẳng Chánh giác, nói theo chữ Phạn là A-niệu-da-la Tam-niệu Tam bồ đề
(Amuttara Samyak Samboddhi). Các đệ tử theo ngài đều là tỳ kheo như nhau, không
đẳng cấp. Đã không không hẳn là tôn giáo, thì cũng không hẳn phải có giáo hội
mà chỉ có những tu hội quy tụ những người đồng một chí hướng trong một tu viện
hay một ngôi chùa.
- Đạo Công giáo rõ ràng là một Tôn giáo vì có Thần Linh Tối Cao
là Thiên Chúa, và có hàng giáo phẩm thống thuộc từ cao xuống thấp tỏa rộng sinh
hoạt trong cộng đồng tín đồ. Chúa Jêsu đã thiết lập giáo hội, đặt ông Phê-rô
làm đầu chăn "các chiên mẹ và chiên con". Chúa như cây nho, tín đồ là
cành nho. Thánh Phao-lô gọi giáo hội là là "thân thể mầu nhiệm" của
Chúa. Giáo hội trở thành keo sơn liên kết người sống và kẻ chết: Giáo hội đang
chiến đấu là giáo hội hữu hình, gồm toàn dân Thiên Chúa ở trần gian, giáo hội
khải hoàn là toàn thể dân Chúa trên Thiên đàng, giáo hội đau khổ là toàn thể
dân Chúa đang chịu thanh luyện sau khi chết, để nhập vào giáo hội khải hoàn.
- Hệ quả: Chữ Giáo Hội trong đạo Phật là mượn của Đạo Thiên Chúa: Là
Ecclesia, Église, Church, theo Thánh Kinh (Mat.16,19), nhưng chỉ mượn được
"sắc tướng" thôi, chứ bản chất thì không thể mượn được . Vì thế, tín
đồ Công giáo đoàn kết keo sơn thành một cộng đồng rõ nét, và tuân lệnh chủ
chiên của mình là hàng giáo phẩm trong vấn đề đức tin. Đời sống giáo hội thông
hiệp với tín đồ bằng lời Chúa do giáo sĩ giảng dạy và nuôi dưỡng tinh thần tín
đồ bằng các phép Bí tích. Bí tích Thánh thể trung tâm của đời sống Công giáo.
Điều này, đạo Phật không thể có được, vì trong đạo Phật ai tu nấy chứng. Trong
Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng ai cũng phải tự mình mà đạt tới. Chính đức Phật đã
dạy:
"Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành" và
"Chúng sanh hãy tự đốt đuốc tìm đường mà đi".
Tuy gọi là "quy y Tam Bảo", nhưng tín đồ đạo Phật hoàn
toàn tự do, không lệ thuộc vào ai. Đã không lệ thuộc ai, thì sự giao tế trong
một cộng đồng chỉ còn là giao tế xã hội hàng ngang. Kết quả sự tôn kính dành
cho kẻ truyền pháp (tương đương với giáo sĩ truyền giáo) giảm. Những cái giảm
kia xẩy ra ngay trong cộng đồng đạo Phật tỏa rộng ra toàn xã hội, đưa đến Ngộ
Nhận là "kỳ thị Phật giáo".
Về những người làm việc tôn giáo
- Đạo Phật: Các tu sĩ đồng hạng đều là tỳ kheo, tức là những người sống
theo lối tu hành của Đức Phật. Muốn làm tỳ kheo chỉ cần tâm nguyện xuất gia là
đủ. Xuất gia rồi, thì giữ giới luật là thành tỳ kheo. Không bắt buộc trình độ
văn hóa hoặc là phải tu học bao lâu. Không có các trường chuyên nghiệp bắt buộc
đào tạo tỳ kheo theo một học trình mở rộng cả đạo lẫn đời. Thường thì các vị sư
cụ (đại lão Hòa thượng, Thượng tọa) thu nhận một số đệ tử rồi tự các ngài huấn
luyện lấy, xong cho thụ giới thành tỳ kheo. Bởi đó, trình độ văn hóa tổng quát
của các vị tỳ kheo thường yếu kém, nhiều vị ngay sự hiểu biết về Phật pháp cũng
rất lờ mờ, pha trộn tín ngưỡng dân gian, ngoại đạo. Ấy là chưa nói tới một số
kẻ lợi dụng như: họ nguyên chỉ là thầy cúng của "đạo" dân gian, bỗng
chốc mặc áo tỳ kheo nhập hàng tu sĩ của đạo Phật.
- Đạo Công giáo: Người giáo sĩ Thiên Chúa dù là giáo sĩ dòng hay giáo sĩ
triều (thuộc mỗi địa phận) được đào tạo trong các trường chuyên nghiệp, theo
học một học trình Quốc Tế là bảy năm, sau khi tốt nghiệp bậc trung học hay
"phổ thông". Ở Đại Chủng Viện, họ được học đủ các môn học về đạo và
đời, học về phương pháp truyền giáo, và học cả về các tôc giáo khác… Đại Chúng
Viện trang bị cho họ đủ khả năng trở thành những "cán bộ" tôn giáo
xuất sắc. Nhiều người trong số họ uyên bác và nói chung đều có học thức.
- Hệ quả: Xã hội Việt Nam trọng kẻ sĩ, những kẻ có học thức thường được
kính trọng. Các nhà sư nhiều người xuất thân từ thầy cúng, hoặc là đệ tử của
các sư cụ khả năng yếu kém, thì sẽ không đủ uy tín lãnh đạo và không tạo được
sự kính trọng của người khác. Điều này, đem so sánh với giáo sĩ Công giáo sẽ
tạo ra sự ngộ nhận là "kỳ thị Phật giáo".
Trước năm 1955, đạo Phật ở Việt Nam chỉ là những "tập
đoàn" rời rạc, quy tụ chung quanh một ngôi chùa hay một tu viện, lấy việc
tu niệm làm chính. Các "giáo hội" Tăng già, Thiền tịnh đạo tràng,
Tăng sĩ Theravada, Tăng già nguyên thủy… giữ nguyên bản sắc của mình
giống như dòng tu riêng biệt, không lệ thuộc một "giáo hội" trung tâm
như Công giáo. Các vị tỳ kheo tu hành thuần túy không màng tới chuyện đời,
không lưu tâm tới vật chất. Những dòng tu hoằng dương đạo pháp, không lệ thuộc
một giáo quyền nào cả. Ở thôn quê có các ngôi chùa làng. Chùa làng là công sức
và của cải của dân làng chung lưng mà dựng nên, không thuộc tập đoàn Phật giáo
nào. Khi đã có chùa rồi, thì hội đồng kỳ mục tự tìm kiếm lấy sư để mời về trụ
trì, và dân làng cũng có quyền trục xuất vị sư ra khỏi chùa, nếu ông ta phạm
giới.
Từ năm 1955, do cố gắng vượt bực về tài chánh, do chính quyền
giúp đỡ, Tổng giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có các hoạt động xã hội và từ
thiện: hệ thống trung tiểu học Bồ Đề ra đời, mà trước đó không có.
Đồng hóa đạo Phật với dân tộc:
Chắc chắn dân tộc Việt Nam đã có một đạo giáo khác hẳn với đạo
Phật. Đạo ấy, là việc thờ cúng tổ tiên và trọng thánh thần. Việc thờ cúng tổ
tiên minh thị chấp nhận như chân lý của dân tộc là linh hồn bất diệt. Vì linh
hồn bất diệt cho nên mới có việc thờ cúng người chết, xem người chết như còn
hiện diện và vẫn tác động vào các sinh hoạt của người sống.
Trong khi đó, thì giáo lý căn bản làm nên Phật pháp của đạo Phật
là thuyết luân hồi, phủ nhận linh hồn hằng sống. Đức Phật không dạy rõ, nếu
linh hồn không bất diệt thì cái gì sẽ làm cho các pháp (con người cũng là một
pháp) được tái sinh vào các cảnh giới trước khi chấm dứt sinh tử thoát khỏi
luân hồi mà vào Niết Bàn?
Các nhà Phật học đã sáng chế ra duy thức học. Cái thức cuối cùng
là A-lại-da thức, tiếng Việt dịch là Tâm thức, tức là cái thức "máy
móc" tạo thành cái nghiệp theo luân hồi. Dù sao thì thuyết luân hồi cũng
trái hẳn với tín ngưỡng của dân tộc là lòng tin vào linh hồn bất diệt qua việc
thờ cúng người chết.
Chính vì thế, nên cho dù đạo Phật đã vào nước Việt sớm hơn đạo
Thiên Chúa, nhưng mỗi ngày càng xa rời với niềm tin của Đạo Việt tin vào linh
hồn hằng sống; đến khi thấy con số tín hữu Công giáo tăng lên vào thời Đệ Nhất
Cộng Hòa, thì các tăng lữ đạo Phật vì không biết làm gì hơn, nên đã lên án chế
độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm là "kỳ thị Phật giáo", là bất công và
gian trá.
Nhưng đánh thẳng vào Công giáo không được, vì phạm tới tín
ngưỡng của người khác, được xem là tội mọi rợ, bị cả thế giới lên án, vì đó là
nhân quyền căn bản và thiêng liêng nhất của con người. Ngay cả cộng sản bài trừ
tôn giáo triệt để, nhưng cũng không dám công khai xúc phạm thẳng tới tôn giáo,
họ phải nhờ cái cầu "giai cấp". Ở Việt Nam những người thù nghịch
Thiên Chúa Giáo đánh Công giáo bằng cách chụp cho Công giáo một cái mặt nạ, một
cái mũ. Mặt nạ ấy, là Cần Lao, nhà Ngô và chủ nghĩa Thực dân Pháp. Đọc những lời
lên án Công giáo đầy rẫy ta thấy rõ "Thực dân, Cần Lao, nhà Ngô chỉ là cái
diện để những người thù nghịch đánh vào Công giáo, không những Công giáo Việt
Nam mà cả Công giáo hoàn cầu, là Tòa Thánh La Mã.
Nghiên cứu về mưu kế, sách lược này được sách "Tam thập lục
kế" gọi là "Thanh Đông kích Tây hay dương Đông kích Tây". Ở đây
không phải là nhà Ngô hay thực dân, mà chính là Đạo Thiên Chúa vậy.
Trở lại cuộc đấu tranh của đạo Phật vào năm 1963. Đa số các tông phái
của đạo Phật chỉ lo tu thân, học Phật, nhiều tông phái không muốn lao thân vào
cuộc đấu tranh lật đổ "nhà Ngô". Nhiều vị tỳ kheo đức độ nhìn nhận
Tổng thống Ngô Đình Diệm là người có công giúp cho các đạo giáo phục hưng và
phát triển ở miền Nam, trong đó có đạo Phật. Nếu cứ để tình trạng ấy thì các
nhà sư chính khách không thể thực hiện được mưu đồ của mình, mà việc trước mắt
là đoàn kết các tông phái rời rạc trong cùng một đạo thu về một mối. Họ đã phát
động cuộc đấu tranh: Tổng thống Ngô Đình Diệm trở thành thứ "oan
dương" cho họ đổ lên đầu những tội lỗi tưởng tượng.
Kẻ làm chính trị được phép sử dụng những thủ đoạn, được quyền
dùng những giả diện để chiếm mục tiêu, nhưng phải thành thật với chính mình,
nếu không thì chết. Hứa Du hỏi Tào Tháo về quân lương. Tào Tháo làm mặt bảnh
nói quanh, nhưng trong bụng thì lo lắm vì quân hết lương rồi. Sau phải thưa
thiệt để Hứa Du hiến kế.
Những kẻ nhận phần trăm dân số đạo Phật ở Việt Nam đã vẽ ra một
tương lai tươi sáng cho "đạo pháp và dân tộc" bằng không tưởng, rồi
quyết tâm hạ bệ "nhà Ngô". Đến khi "nhà Ngô" đổ rồi, thì
đạo pháp trở thành mạt pháp, còn dân tộc thì điêu linh khốn cùng tới tận đất
đen. Các tay chính khách đạo Phật từng ngụy trang thành tăng sĩ chính khách, đã
đồng hóa đạo Phật với dân tộc, để nhận cái số đông quần chúng làm quần chúng
của mình theo cái cách thức của những kẻ làm chính trị. Công thức "đạo
pháp và dân tộc" không những trái với lịch sử mà còn tỏ ra là gian dối.
Nay họ vẫn chưa từ bỏ tham vọng, dù thực chất của họ chẳng có gì. Những ai có
lòng với đất nước Việt Nam không nên ngại ngùng gì mà phải đưa vấn đề ra trước
ánh sáng, để quốc dân biết mà tránh sau này.
Comments
Post a Comment