Sự hèn hạ, vô ơn của bè lũ cộng Nô và sự man rợ, ác độc của bọn Tàu khựa với nỡ tù binh Việt Nam xhcn.
Subject: Nữ
tù binh VN -Trung Quốc 1979-1989 --lính Trung Cộng lập tức hiếp nhiều
lần, nữ tù binh mang thai, sau đó bị xẻ tay chân lìa thân thể! Một số
tù nhân nữ chết, chôn vùi, lấp vội.
Subject:
Re: 1 DĐKTTG Re: Tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989
--Đọc để rõ tương lai khủng khiếp một khi đất nước nằm trong tay bọn ác
quỷ này ,số phận người dân Việt không hơn số phân con vật-con heo hay
con trâu
Đầy đủ
tài liệu để đọc về sư dã man mọi rợ của Tàu Khựa đối với kẻ thù của
chúng đặc biệt tội ác quá kinh tởm và hãi hùng với nữ tù binh Việt Nam
Đọc để rõ tương lai khủng khiếp một khi đất nước nằm trong tay bọn ác quỷ này ,số phận người dân Việt không hơn số phân con vật-con heo hay con trâu
Tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989 - Kỳ 1 (Huỳnh Tâm)
Chiến tranh biên giới VN-TQ, ngày 17/2/1979-1989. Trên 421 nữ tù binh Việt Nam tại trại Lâm Sơn (林山), Bác Lý Hà (八里河), và Đông Sơn (东山) tỉnh Vân Nam, Trung Cộng. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm. [1]
LTG. Năm 1986, chúng tôi có dịp đi những chuyến thực tế tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc, được biết một phần về trại tù binh Lâm Sơn (林山), Bác Lý Hà (八里河), và Đông Sơn (东山),
ngày nay những địa danh này thuộc về lãnh thổ Vân Nam, Trung Quốc. Trên
đường đi gặp những nữ tù binh Việt Nam, họ rơi vào tình cảnh chiến
tranh quá khủng khiếp, thân phận trôi nổi, bị hảm hiếp, phanh thây, xác
vùi dập đó đây khắp nẻo rừng sâu nước độc.
Từ đó đến nay chúng tôi tưởng chừng quá khứ đã quên đi ký ức của mình. Nay
có dịp tiết lộ về thân phận của nữ chiến binh đã bị nhà nước lãng quên
sau chiến tranh. Trong khi ấy đảng Cộng sản hưởng thụ trên xương máu của
nữ chiến binh, bỏ lại sau lưng những linh hồn phụ nữ Việt Nam cao quý.
Viết
về những sự kiện mắt thấy tai nghe với những tham khảo hồ sơ lưu tại
Ban tuyên giáo của Quân ủy Trung ương Trung Cộng, cùng những lời chứng
nhân tường thuật từ cõi tù binh vọng về. Rất tiết thương cho họ đã sống
không ra kíp người và chưa bao giờ tiếp nhận được một đoái
hoài của nhà nước Cộng sản Việt Nam, sau khi kết thúc chiến tranh tại
biên giới Việt Nam-Trung Quốc vào thập niên (1979-1989).
Đến hôm nay những mãnh đời tù binh sẽ xuất hiện để người đời nhớ mãi không quên chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc.
Dấu ấn tù binh chiến tranh 1979-1989.
Chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc, hơn mười năm (1979-1989), đã từng xuất hiện nhiều trại nữ tù binh Việt Nam tại Vân Nam. Nơi tăm tối nhất đe dọa đời sống, họ phải chịu đọa đày vô cùng tàn nhẫn, cắt đứt đường liên lạc với thế giới bên ngoài, những tin tức về họ hầu như biến mất trên cõi đời này cho đến ngày nay!
Ba mươi sáu năm trước (1979-2015), cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung vẫn còn mãi dư âm một thời đẫm máu nhất thế kỷ, thế nhưng ít ai biết. Trong chiến tranh, cả hai bên binh sĩ đã bị bắt. Tù
binh Việt Nam không được hưởng ưu đãi quy ước chiến tranh. Trung Quốc
đã vi phạm những tội ác ghê tởm trong cuộc chiến tranh biên giới.
Nữ tù binh Việt Nam bị lính Trung Quốc lạm dụng vô cùng tàn nhẫn.
Một khi nữ tù binh Việt Nam rơi
vào phía Trung Cộng, sợ nhất những con người trần trụi bám vào thân nữ
tù, người lính Trung Cộng lập tức hiếp dâm, đôi lúc lặp đi lặp lại nhiều
lần, vì vậy có một số nữ tù binh mang thai, sau đó bị xẻ tay chân lìa
thân thể! Một số tù nhân nữ chết, chôn vùi, lấp vội.
Đôi
khi, chúng tôi gặp những thi thể trên bãi cỏ dưới triền núi, đôi mắt
loay hoay nhìn kỹ không khác một con hải cẩu nằm bãi biển, thực ra những
người nữ chiến binh đã chết bằng hình thức nào chỉ thấy trơ trụi không
có chân tay, thi thể quá kinh hãi, đó là người nữ chiến binh Việt Nam bị quân đội Trung Cộng hảm hiếp sau đó cắt đứt tay chân!
Ấn phẩm truyện tranh của Họa sĩ Thiết Huyết (铁血); Cho
thấy cảnh tù binh bị lính Trung Cộng hảm hiếp tập thể, đã phản ánh
chiến tranh biên giới VN-TQ. Điển hình những nữ tù binh Việt Nam, đang bị an ninh quân đội Trung Quốc tra tấn. Họ phải chịu đựng mọi thử thách qua nhiều năm trong chiến tranh. Cán bộ quản chế nhà
tù tàn bạo đối với những nữ tù binh, cuộc đời và cái chết trên chiến
trường quá bi thảm, Trung Quốc đối sử độc ác, không còn tính nhân đạo,
ngoài ra còn có nhiều nữ tù binh chết sau khi cưỡng hiếp tập thể. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc loan tải. [2]
Việt
Cộng-Trung Cộng trao đổi tù binh chiến tranh, nữ tù binh xuất hiện chân
dung chờn vờn như một bóng ma, mất hết sắc diện người phụ nữ Việt Nam,
trong trận chiến lính Trung Quốc bắt được một nữ tù binh gọi là "con
dấu", được xem như độc quyền chiến lợi phẩm, nữ tù binh chỉ còn đôi hàm
răng cắn chặt vào nhau, sang bên kia thế giới không thể chấp nhận con ác
quỉ dục tính Trung Cộng!
Nữ tù binh Việt Nam bị hảm hiếp, sau đó đốt cháy thủ tiêu. Cảnh này chúng tôi đã nhìn thấy trên chiến trường, và những chứng nhân tường thuật lại trong cuộc chiến tranh biên giới VN-TQ. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Ngoài
ra, chúng tôi còn chứng kiến một bệnh viện dã chiến của Việt Nam bị
Trung Cộng tấn công, hàng trăm người bị thương, lính Trung Cộng bắt sống
nữ y tá làm phương tiện sinh lý, cực kỳ tàn nhẫn. Vào lúc này những
người lính Trung Quốc sai khiến nữ tù binh làm gái giải sầu, bằng cách
đe dọa thủ tiêu hay cho tàn phế.
Một người nông dân Nùng nói với chúng tôi. "Tất
cả các con chim sẻ đều sợ hãi khi nghe tiếng súng nổ", như nữ tù binh
rơi vào cảnh quá thương tâm. Điều này cho thấy tù binh có hai lần bại
trận, dù trước đó họ ý thức chính trị, và người thanh niên cất
cao tư tưởng chiến đấu vì đảng nhưng hôm nay họ là bao thịt không giá
trị đối với đảng "Bác".
Nông
dân Nùng cho biết. Trước năm 1977 đã có nhiều binh sĩ Trung Quốc tiến
vào biên giới Việt Nam. Thanh niên trong làng tham gia vào lực lượng dân
quân, thường xuyên tổ chức đánh đuổi chúng, đôi khi có những nữ dân quân xa vào phục kích Trung Quốc từ đó họ mất tích. Dân
làng cảnh giới trước đã nói rằng Trung Quốc sẽ khởi động một cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam, do đó trên núi đã lập những đường mòn nhỏ, bố
trí nhiều trạm kiểm soát của dân phòng.
Chúng tôi hỏi về quan điểm của người Trung Quốc,
Ông
lặp đi lặp lại, Trung Cộng tuyên truyền vô lý, Việt Nam sẽ có âm mưu
xâm chiếm biên giới Trung Quốc, cho nên dân quân cố gắng kiểm soát biên
giới, chiến tranh bùng nổ, dân làng mang thức ăn chia xẽ cho dân quân để
đề phòng địch và gìn giữ đồng ngô, khoai. Vào tháng 2 năm 1979, dân
quân chiến đấu không may đã tử thương 71 thường dân, 153 thương nhẹ, 27
nữ, và 56 nam thanh niên làm tù binh, cán bộ cấp xã mất tích 5 người.
[3]
Năm
1989, được biết Quân đội nhân dân Việt Nam có đến 10% nữ làm tù binh,
chính quyền Việt Cộng dối trá chưa bao giờ tuyên bố con số tù binh nằm
trong tay Trung Cộng, Cộng sản thống trị đất nước nhưng hẹp hòi tính dân
tộc, đứng trước Trung Quốc đem lòng sợ hãi.
Nữ tù binh có bốn đặc điểm.
-
Tình cảm, gia đình coi trọng nặng hiếu, hầu hết các tù nhân nữ không có
ý định đào thoát trại giam, ở tù một vài ngày đã nhớ đơn vị, nỗi nhớ
nhà cũng không kém, đôi khi khóc về thân phận. Thường thích trao đổi với
nam tù binh, có nhiều người mở cửa cho nam tù binh tán tỉnh.
-
Nữ tù binh bắt đầu nhút nhát, thích nói dối, họ chú ý học tập chính
sách khoan hồng. Khi cán bộ quản chế giáo huấn cũng nói dối để che đậy
những ý tưởng riêng của họ, một số gián tiếp trốn tránh câu hỏi về đảng
CSVN, nữ tù binh có nhiều lo âu, nếu gặp phải hiểu lầm tình báo của địch
hay nội gián sẽ có hậu quả khôn lường.
- Họ thường bận tâm cho những nam tù binh, thậm chí họ không quan tâm bản thân.
- Tuy ở tù vẫn tìm hiểu thân thế nam tù binh không nghi ngờ đối tượng, hy vọng ngày về hứa hẹn hạnh phúc.
Tuy
nhiên, những nữ tù binh này không được về lại quê hương, sau khi trao
trả tù binh, Việt Cộng lập tứ phi tang họ trong rừng sâu. Cho đến ngày
nay nhân dân Việt Nam không hề biết thân phận của tù binh chiến tranh
sống chết thế nào! Việt Công không công bố vì bí mật quốc phòng.
Theo
đặc điểm sinh lý của nữ tù binh trong cuộc sống tù binh, sau khi nhập
trại giam họ sống rất là đặc biệt do thiếu chăm sóc vệ sinh, Trung Cộng
không cung cấp điều này, họ phải xé áo quần làm băng vệ sinh, tù binh
không hưởng quy định quần áo cần thiết, cũng không có phương tiện trang
điểm như bàn chải, gương, kẹp tóc, giấy vệ sinh, đồ lót phụ nữ, khó khăn
hơn họ không có ít được tắm rửa, giặt giũ quần áo. Nếu có quan khách
đến thăm, cai nhà tù tổ chức các hoạt động giải trí nhưng do nữ tù binh
thực hiện theo trò vui dân gian bình thường.
Trung
Cộng thực hiện mục tiêu quản lý khắt khe đối với nữ tù binh quân sự,
giáo huấn theo quan điểm Mao. Đặc điểm Trung Cộng tuyên truyền chính
sách chiến tranh "Tự vệ". Cố gắng loại bỏ quan điểm thù địch. Thậm chí
có nữ tù binh ham sống sợ chết nói: "Nếu ai đó hỏi tôi những gì Trung
Cộng tốt nhất, tôi sẽ trả lời Trung Cộng chiếm được Việt Nam là tốt
nhất". bởi họ đã bị lột võ biến chất trở thành tình báo trong trại tù.
Có một số nữ tù binh không hài lòng cách phát biểu trên.
Những nữ tù binh Việt Nam bị Trung Cộng trói thắt gút tay chân, cho dễ tra tấn và di chuyển không sợ tẩu thoát. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Tù
binh nam và nữ quản lý riêng biệt, không được thường xuyên liên lạc và
trao đổi chỉ hiểu nhau bằng tác động. Một số tù binh nam yêu cầu chung
sống và khuyến khích nữ tù binh tuyệt thực, nhà tù mạnh tay kiểm tra
hành vi bạo động, sử dụng các nữ tù binh lớn tuổi quản lý tình cảm trong
các buổi giáo huấn, sau khi nhà tù quản lý chặt chẽ, kết quả chấm dứt
một phần bạo hành tình dục giữa nam và nữ tù binh.
Nhà
tù tích cực quan tâm, quản chế hành động của nữ tù binh vì dễ quản chế
hơn nam tù binh. Họ chú ý quản chế những tù binh tâm thần, bởi họ thường
hô to "chúng tôi ủng hộ Việt Nam" và cũng đôi khi "ủng hộ Trung Quốc".
Có vài vụ nữ tù binh sau khi sẩy thai, cán bộ kịp thời quản lý,
nuôi-nhốt chung với tù binh bị bệnh nhưng không cho bác sĩ chăm sóc.
Trong
cuộc chiến tranh biên giới, có những nữ tù nhân tay chân co rút, người
trần trụi, bởi nhiều vết thương lâu ngày lở loái, cũng có những hình ảnh
phụ nữ bị cháy đen vì boom đạn và bị lính Trung Cộng thủ tiêu bằng cách
đốt cháy. Phóng viên Trương Tiệp Lực tiếp cận cô Triệu Mai tặng một
bánh thực phẩm khô, cùng với một bi-đông nước. Lúc đầu sợ hãi, sau đó
chúng tôi thấy Trương Tiệp Lực chân thành, khuyến kích cô uống gần hết
bi đông nước, sau đó mới lấy lại được hơi thở.
Cán
bộ quản chế nhà tù sử dụng nhiều hành động bất nhã đối với nữ tù binh
chiến tranh. Họ không thể tránh những nông nỗi sợ hãi, đôi mắt nhìn lên
bầu trời xanh, tay chân run rẩy từng hồi và khóc, khóc mãi!
Tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989 Kỳ 2 (Huỳnh Tâm)
Trại tù Bác Lý Hà (八里河)
tăng cường đội ngũ cai tù, đẩy mạnh quan điểm chiến tranh "tự vệ", chủ
yếu giáo huấn nữ tù binh Việt Nam thấm nhuần tư tưởng thân Mao. Quản lý
tù binh sống trong giam cầm chặt chẽ, về cơ bản cải tạo tù binh có mối
quan hệ tốt với nhà tù, dần dần sâu đậm đem lòng cảm kích Trung Cộng.
Xe bọc thép Trung Cộng thuộc Trung đoàn 55, đang làm nhiệm vụ thảm sát trại nữ tù binh Việt Cộng. Những
tù binh còn sống họ khai thác tình dục, đối sử bất lương, mỗi khi có
bệnh nhân, bác sĩ không quan tâm, cai tù lạnh nhạt. Họa sĩ Thiết
Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.
Đặc
biệt nữ tù binh có một số làm rối loạn trật tự, mục đích tập trung vào
mối liên hệ nam nữ, một số ít nữ tù binh công khai quan điểm chiến tranh
biên giới của Trung Cộng. Nhà tù tăng cường quy định giáo dục và phê
bình chiến tranh, nhưng không làm tổn thương lòng tự trọng của họ. Từ
khi có các biện pháp quản lý chặt chẽ được hiệu quả, không còn hiện
tượng ăn mòn tâm trí của nữ tù binh. Có một số tù binh cẩn thận phát
biểu về sự tra tấn của ban quản chế trại tù, do đó, các nữ tù binh Việt
Nam đã trải qua những thay đổi quan điểm lên án Việt Cộng thân Trung
Cộng, lúc này trong lòng họ xuất hiện nhiều câu chuyện lẫn lộng dối trá
trong chiến tranh.
Cai tù Danh Khiếu Đinh, và Vương Việt Quân
cho biết những nữ tù binh nhập trại càng ngày càng đông, họ là lính của
Quân đội Nhân dân Việt Nam, nay họ được giáo huấn tư tưởng Mao Chủ
tịch, cho thấy những nhà lãnh đạo thối nát hiện trên khuôn mặt chế độ
chủ nghĩa bá quyền Việt Nam. Ông thẳng thừng phát biểu: "Chúng tôi, và
người dân Việt cũng đều muốn sống trong hòa bình, xây dựng tư hữu quốc
gia, nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam đi với Liên Xô, việc thực hiện
chính sách mở rộng, tham gia chủ nghĩa bá quyền bất kể cuộc sống và cái
chết của con người, sở dĩ Trung Cộng mở cuộc chiến tranh "tự vệ", cơ bản
cho Việt Cộng một bài học".
Trên chiến trường biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989.
Nữ tù binh Việt Cộng bị đánh đập, tra khảo, lấy khẩu cung và làm mồi
tình dục cho lính Trung Cộng. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử
diễn đàn Trung Quốc.
Chiến
binh Nguyễn Thị Liễu, phục vụ trong Quân đội Việt Cộng sau khi bị
thương và làm tù binh, cô thất vọng ngày đêm phá vỡ nước mắt, cô phải
vật lộn để ngồi dậy từ trên đôi cáng, đưa cô vào trạm xá dã chiến nghỉ
qua đêm, cô vội vàng trốn nhưng không thoát khỏi bàn tay hảm hiếp, tràng
trề nước mắt, đầu hàng: "Việt Nam sẵn sàng tuyên bố bất khả chiến bại.
Việt-Hoa mãi mãi tình bạn!" Cho thấy chỉ có tinh thần chiếu đấu của
người Cộng sản sợ kẻ thù muôn kíp, còn cảm ơn các lực lượng vũ trang và
chính phủ Trung Cộng!
Những
tình báo Trung Cộng so sánh, nếu đem trại tù binh chiến tranh của Trung
Quốc có thể tương đương với Đức Quốc Xã. Việt Cộng-Trung Cộng không đề
cặp đến vì nó là tội ác chiến tranh, đáng trách Việt Cộng không lên
tiếng tố cáo Trung Cộng có phải vì lý do khiếp nhược.
Xe bọc thép Trung Cộng T-62 cỡ nòng trơn 115-mm, tầm hoạt động trên địa hình xấu là 320 km, trên đường bằng phẳng 450km,
trước khi viên đạn ra khỏi nòng, những nữ tù binh Việt Nam treo lên đại
pháo sẽ nhận được độ nóng và độ giật, rồi chết, đây là một lối tử hình
tù binh trong chiến tranh Việt Cộng-Trung Cộng 1979-1989. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc. [2]
Năm 1970, Cán binh Việt Cộng Phùng Bảo
Hiến đã từng bị VNCH bắt làm tù binh, không may, nay làm tù binh lần
thứ hai dưới tay người anh em Trung Cộng, ông nói: "Tôi đã bị VNCH bắt
làm tù binh, nhốt tại trại Phú Quốc, một đảo chuyên về ngư nghiệp của
những người giàu có, các doanh trại được bao phủ bằng tấm lưới sắt,
thông qua các hàng lang trại, mọi người ngủ rộng rãi, ăn uống thừa thải,
ngủ trên tấm phản xi măng có chiếu, màn chống muỗi, một năm nhận được
ba bộ quần áo, cấp giày, dép, phương tiện vệ sinh rất tốt. Cổ phần mỗi
ngày, ăn sáng, trưa và chiều có rau, cá, thịt, trứng, nước mắm, đường và
sữa.
Còn
cho thân nhân gửi tiền mua thuốc lá, bánh kẹo v.v...không bị đánh đập,
cho nghe đọc báo đài, tự do tập thể dục và chơi thể thao, tổ chức văn
nghệ, đờn ca lúc nào cũng thuận tiện, tự do tín ngưỡng có nhà nguyện,
chùa và thánh thất rất chu đáo. Trừ phi tù binh vi phạm kỹ luật trại,
nếu nhẹ ngủ một đêm trong căn phòng tối, hoặc không cho ăn rau, trốn
trại tù binh phải chịu phạt ngồi trên dây thép gai một buổi.
Trước
khi tôi bị bắt, trái tim rất sợ hãi, nhưng bây giờ chúng tôi sống quá
tốt, cảm thấy nhẹ nhõm. Chính sách VNCH đối xử nhân đạo với tù binh, tôi
ngưỡng mộ điều này, chỉ có chính phủ VNCH xử lý rất ưu đãi duy nhất
trên thế giới về tù binh chiến tranh. Có vào nhà tù mới biết đâu là chân
lý, tôi xin chân thành cảm ơn VNCH!"
Trong khi ấy chúng tôi ở tù tại trại Đông Sơn (东山)
tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, sống và học tập theo Mao, thiếu thốn tối
thiểu nhu cầu thiết yếu hằng ngày, chịu đựng tra tấn "7 không". Không
khiếu nại, nguyền rủa, nói chuyện, ăn mặt, phát biểu, phương tiện sinh
hoạt tập thể, liên lạc trong ngoài trại. Và "5 học tập" theo quy định
của nhà tù: Học tập theo gương Mao Chủ tịch, chiến tranh "tự vệ", ăn
năng hối cải, tù binh gương mẫu, chấp hành quy định nhà tù. Người bị tù
như chúng tôi đã hết không còn hy vọng để sống.
Nữ tù binh trên đường chuyển trại. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.
Những tù binh sau khi giáo huấn, phát biểu theo cảm hóa:
Dương Đức Bình
cựu chiến binh Việt Minh hoạt động quân báo, trong thời chiến tranh
chống Quốc Dân Đảng đã có mười lần đến Trung Quốc tiếp nhận nguồn cung
cấp chiến tranh cho Việt Nam và giao thông vận tải nói: "Trong chiến
tranh đời tôi quá trớ trêu đã từng làm tù binh của Trung Cộng, từ đó hóa
thân sâu sắc và nhận rõ đâu là giáo dục của nhà tù chiến tranh".
Ô,
Mai Liêu một tù nhân chiến tranh cho biết: "Tôi là một chứng nhân của
Trung Cộng chân thành truy tố chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc. Họ tuyên
truyền dối trá và bóp méo sự thật tù binh trong chiến tranh 1979-1989,
đôi khi vu khống sai thực tế". "Họ rêu rao tối ngày về tình hữu nghị
giữa nhân dân hai nước và những nỗ lực để khôi phục lại các nhân chứng,
nhưng không bao giờ thực hiện bất kỳ điều nào". "Sau khi học tập vì sợ
hãi người tù phát biếu như một, tất cả mọi thứ nghe một chiều. "Trung
Cộng giáo dục những thế hệ tương lai trân trọng tình hữu nghị giữa nhân
dân hai nước và phục hồi tình hữu nghị Việt Nam và Trung Quốc đã một lần
chiến tranh tự vệ".
Tù
binh Nguyễn Đinh Chí cho biết: "Trong những năm qua, Trung Cộng viện
trợ cho Việt Cộng vô điều kiện, cho dù đó là vũ khí đạn dược, hoặc gạo,
vải, thậm chí cả giày và vớ, bàn chải đánh răng và những vật dụng cần
thiết hằng ngày, cuộc xung đột vũ trang tại biện giới vào những năm 1979-1989, các nhà chức trách Việt Cộng-Trung Cộng đã biết trước".
Cai
tù Ngô Hiểu Khoa (Wu Division) cho biết: "Tôi là người Việt Nam, lớn
lên ăn cơm của Trung Cộng, bây giờ mặc đồng phục viện trợ Trung Cộng,
cao hơn tôi phải sử dụng vũ khí Trung Cộng để chống lại nhân dân Việt
Nam, mà tôi đã tham gia chiến tranh xung đột biên giới 1989, hồi tâm tôi
là người bất lương, sau khi hoàn tất nhiệm vụ cai tù giết lại người
Việt".
ÿ Huỳnh Tâm
Tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989 - Kỳ 3 (Huỳnh Tâm)
Ngày
06 tháng 3 năm 1979, quân đội Trung Cộng chia làm hai hướng di chuyển
sâu vào khu vực biên giới đã chiếm của Việt Nam, súng pháo không giật nòng trơn cỡ B-10 82mm,
súng máy hạng nặng quét sạch dân quân trên dọc đường rút quân về bên
khi biên giới, sau khi tiêu diệt các ổ dân quân, tìm thấy bên đường có
sáu đường dây điện thoại, nhận ra có ba hang động gần đó. Kiểm tra toàn
bộ khu vực thấy nhân dân bị thảm sát, mùi thuốc súng còn bốc khói khét
lèn lẹt, chỉ còn lại một phụ nữ Việt cao tuổi, nằm xỏa tóc ngất liệm.
Theo phân tích chiến sự, tại khu vực có một số dân quân du kích còn ẩn náp trong một hang núi phía đông bắc Thạch Sơn,
có hai bóng đen cảnh giới vừa nhanh chóng trốn vào hang động, lính TC
đã nhiều lần yêu cầu đầu hàng nhưng không thấy trả lời, phải chờ một số
lựu đạn bộc phá, giật sập cửa động, dùng lựu đạn cay, khí độc, chất hóa
học thả xuống các lỗ thông hơi... giết chết và bắt sống hàng trăm người
dân, có hai nữ dân quân đầu hàng, lính TC khai thác nữ tù binh, cho
biết, người dân địa phương ẩn náu trong hang động Thạch Sơn đã bị TC
thảm sát tập thể đã chết nhiều ngày qua. [1]
Lệnh chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình, gọi là chiến tranh "Tự vệ". Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Đoàn binh TC tiến vào Thạch Sơn,
đầu tiên xác định kiểm soát địa hình gần đó, lính trinh sát tiến vào vị
trí, xác nhận đối phương (VC) đang tổ chức đội hình có khả năng tấn
công tiêu diệt kẻ thù (TC). Tình thế đổi thay chiến thuật, Trung Cộng
triển khai sáu lớp tiến quân, dẫn đầu bởi phó chỉ huy, theo đường lối
phía đông bắc Thạch Sơn, nhóm trinh sát báo cáo có 4 Trung
đoàn của kẻ thù đang phòng thủ, kiểm soát phía tây của hang động, tựa
lưng vào núi cao làm bình phong kiên cố để phòng thủ, khi chiến đấu bao
quanh 2 hướng phía tây-nam chân núi.
Quân
TC tái kiểm soát phía tây-bắc mở đường tiến vào làng Thạnh Sơn, tiếp
theo quân TC kiểm soát phía đông và phía nam; nơi đây có 1 hàng rào quân
dự trữ; 82 súng không giựt, trấn thủ hai lối, ba khẩu súng máy hạng
nặng, chiếm đóng phía nam sườn đồi có địa hình khá thuận lợi, sẵn sàng
để ngăn chặn lửa pháo, và tăng cường 6 Trung đoàn sung kích.
Phụ nữ, trẻ em và dân quân Việt Nam bị Trung Cộng thảm sát trong ngoài động Thạnh Sơn. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc. [2]
14:00,
quân binh TC cần nước uống, phó chỉ huy Chu Phú Hải (Zhou Fuhai) nhận
lệnh lãnh một tiểu đội đi tìm nước, đột nhiên phía VC phục kích làm sạch
một tiểu đoàn tại chỗ, bỏ lại 10 khẩu súng, nhiều loại đạn. Đoàn trinh
sát TC chỉ đạo thực hiện phục kích tảo thanh địch, dẫn đầu đi luồn qua
những con đường mòn dọc theo sườn núi phía đông bắc của Thạch Sơn.
Khi tới núi tổ chức đội hình leo vách đá vì những ngọn đồi dốc, chia
thành hai hướng di chuyển về phía trước, sau khi bắn tỉa tiêu diệt một
tiểu đội đối phương, chỉ huy bố trí lại hỏa lực đội hình thu quân trở
lại tìm kiếm dân trong làng tiếp tục giết. Một ngọn lửa của VC vừa bùng
lên, quả bom nỗ đoàn quân Trung Cộng thiệt mạng trên 23 tên, bị thương 8
tên, trận chiến tuy nhỏ nhưng TC thiệt hại nặng.
Quân
binh Trung Cộng lùi lại một con đường mòn, thay đổi chiến thuật, hướng
tiến công vào mục tiêu, quyết tâm thực hiện một trận chiến có tính phục
thù để bù trừ lại đồng đội thương vong, súng không giật, súng máy hạng
nặng bắn xối xã xuống các lỗ hang động, bởi nghi ngờ có VC, nhưng không
may mắm trước đó một giờ quân VC đã rút lui chỉ để lại những dấu vết cối
pháo, không tìm thấy bóng kẻ thù.
Gần
hoàng hôn quân TC, lục xét lại dấu vết vị trí của quân thù, đi theo
đường sương mù xuống đồi núi, chạm mặt hai mũi địch-thù cài răng lược cố
thủ, quân binh TC có dấu hiệu bổ xung quân, đình chỉ các cuộc tấn công
chờ sáng mai, như một lời cảnh cáo mạnh mẽ, hứa hẹn chiến đấu một trận
chiến cuối cùng, kẻ nào nao núng sẽ thua trận trước, phá vỡ ý chí địch
quân, trong đêm VC biết mình quân ít, chuyển quân vào chân núi trụ lại
điểm yết chờ hầu phục kích.
Người lính VC trúng đạn pháo của TC. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [3]
Lúc
4:00 vào ngày 17, tháng 3-1979, hỏa lực của sáu Trung đoàn TC trở lại
chiến đấu, lúc này VC đã bỏ vị trí chỉ còn lại hai người lính tử thương
đem đi không kịp, quân TC đánh mất một cơ hội buôn chân kẻ thù. Quân TC
tăng cường hỏa lực đại pháo cho Trung đội 6, Trung đội 3,
và Trung đội 8, mỗi Trung đội tiếp cận từ bên trái sang bên phải tiến
vào mục tiêu. Đúng 10 giờ sáng, ba lớp binh chiến đấu chiếm được vị trí
thuận lợi. Phó chính trị viên đem theo 2 Trung đội di chuyển nhanh chóng
tiếp cận các lỗ châu mai, đầu tiên bắn hai quả tên lửa, ngay lập tức
hai trung đội tận dụng lợi thế cắt đứt các con đường vào làng, và hang
động chia thành ba nhóm trên cả hai mặt trước của bức tường núi thiên
nhiên, dọc theo hướng phía trước tìm kiếm địch, dù bầu trời đang tăm
tối.
Để
xác định tình hình bên trong hang động, đầu tiên hai lớp đèn pin, cụ
thể sau khi mở đèn, phía trước đã có ánh lửa của đối phương, và phạm vi
giới hạn của ánh sáng, nếu sử dụng động cơ chiếu sáng sẽ quan sát bất
tiện, dùng đèn pin chỉ đủ ảnh hưởng đến tầm nhìn, cách tiếp cận này
không thành công. Trong trường hợp này, mặc dù đã tìm thấy dân làng Việt
Nam trú ẩn trong hang động, nhưng bên trong hang động không thể cung
cấp các điều kiện sống lâu một khi có chiến tranh. Phía quân đội TC vì
tình hình an ninh, họ tìm mọi cách xóa vết tích, đưa tập thể nhân dân
Việt xuống lòng đất, hành động chông tập thể, rải rác biên cương mồ viễn
xứ, sử lý hơn sáu giờ.
Tiểu
đoàn Trưởng 159 của TC, xem xét hàng ngũ sau một ngày giao tranh dữ dội
tại Thạnh Sơn, bây giờ chỉ còn lại tiếng súng rải rác, quân TC quyết
định tạm dừng tiếng súng, thậm chí còn gọi 2 Trung đoàn, rút ra bên
ngoài hang động, ngăn chận được địch, có khả năng vượt trốn thoát, quân
đội TC cũng có những trở ngại, khó kiểm soát được "mìn tóc kéo" (Nữ
chiến binh VC) đang phục kích trong hang khoảng 100 mét, quân TC luân
phiên di chuyển để tráng phục kích, lúc này hai phía theo quy luật đánh
du kích. Phó chính trị viên, chỉ huy hai tiểu đoàn TC, chuẩn bị đủ dây
thừng, cọc tre dài và các thiết bị khác để sử dụng trong việc tìm kiếm
hang động; tăng cường cảnh giác bên ngoài, chống kẻ thù chạy thoát.
Tiểu đoàn 159 của TC, bám sát động Thạch Sơn, trong động hiểm trở có nhiều bậc thang và ngõ ngách. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [4]
Vào ngày 8, đổi chiến thuật, đại đội trưởng và phó chính trị viên lãnh đạo một trung đội Sưu Tiễu
(Souchao) dẫn theo 3 Trung đội, bố trí một cánh quân bên phải, một
trung đội trưởng và hai nhóm trên bên trái, một nhóm đi về phía trước
tìm kiếm, cả ba liên lạc với chỉ huy Tùy Ban (Suiban). Sau khi theo dõi 3
lỗ động cách đó khoảng 30 mét, trước mặt có thêm động Sơn Đỗng
sâu thẩm khoảng 60 mét, tất cả đều một màu đen. Một nhóm có cọc tre 4
mét dài, xuống trước chạm bức tường đá dọc theo động, đôi chân thăm dò
từng bước về phía trước, vô tình một tảng đá nhỏ rơi xuống van lên âm
thanh manh theo gió hó, thu hút các vị trí của đối phương tiếp xúc được
tiếng động. Chắc chắn, những âm thanh hướng đến đối phương như một quả
bom. Theo ánh sáng phát ra khi kẻ thù (VC) đủ thời gian tránh được lựu
đạn cay, khí độc, chất hóa học thả xuống các lỗ thông hơi, sau khi xác
định vị trí cụ thể của nó, những quả bom tiến về phía trước đối phương,
những kẻ thù phải chết, binh lính TC cũng nhận thấy rằng kẻ thù khó trốn
thoát.
Đội
quân 1 và 2 của TC luân phiên trải rộng đuổi theo dân quân địa phương,
đến lỗ động nhỏ giết sạch cách miệng động khoảng 100 mét, phó chỉ huy
khám phá một lỗ nhỏ, nơi đó có một số người ẩn nấp, vội cho một tốp lính
đi dọc theo bức tường ở hai bên đầu, bắt sống được toàn bộ dân quân còn
lại làm tù binh, hộ tống họ ra khỏi lỗ động. Trong số tù binh muốn
kháng cự lại, quân TC bắn ngay tại chỗ chết 3 người dân cách khoảng 10
mét, khiến binh sĩ TC tiến hành theo dõi, tìm kiếm những lỗ động còn
lại, đến cuối hang động, lính TC phát hiện nghe trẻ con đang khóc.
Quân Trung Cộng không tha bất cứ già trẻ, giật sập cửa động, dùng khí độc, chất hóa học thả xuống các lỗ thông hơi giết sạch mọi người trong động. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.
Trong
trường hợp này, quân TC chia nhau kiểm soát mỗi lỗ hang động, tiếp theo
tập trung lực lượng quét sạch từng hang động một. Điểm đặc biệt có
nhiều lỗ hang nhỏ khoảng năm mét được kết nối với nhau thành hai đầu lỗ,
có độ dốc lớn, cho nên không rõ bao nhiêu người ẩn nấp. Trong các hang
động ở phía cuối càng sâu hơn, đèn khí đá treo trong lỗ cũng là cách
đánh lừa lạc hướng kẻ thù.
Quân
Trung Cộng tổ chức đội hình tấn công vào hang động, việc đầu tiên dập
tắt đèn khí đá, hai binh sĩ sử dụng một cột tre dài cho xuống lỗ, tiếp
theo tìm kiếm phía dưới và ngụy trang không bịt lỗ ở đầu bên kia để thu
hút đối phương, sau khi tìm được kẻ thù, chỉ cần một quả bom sẽ giết
sạch, và sau đó nhanh chóng di chuyển bằng cách trượt tre dọc theo bức
tường lỗ, tránh phản công.
Sinh
hoạt trong hang động, TC cho nhóm tình báo gián tiếp trà trộn trong
quần chúng, bám vào dân quân du kích và lính VC, họ lấy quần chúng làm
lá chắn ở phía trước, lính TC còn hãm hiếp phụ nữ trong hang động khuất,
phần đông người dân tộc thiểu số, một điều lạ lúc sợ hãi tất cả mọi
người tụng kinh "nặc tùng lá trống!"
Sau
khi thẩm vấn những nữ tù binh, họ cho biết bị lính TC tra tấn vô nhân
đạo, lẫn ngày cả đêm, không gián đoạn bạo lực. Lính TC đã trở thành băng
đảng hảm hiếp, xem nữ tù binh là chiến lợi phẩm, họ cho rằng trên chiến
trường có quyền hưởng giải sầu, chúc mừng hạnh phúc, lính TC suy nghĩ
đời chiến binh, chuyện đồng lõa hảm hiếp như một cơn say quá tuyệt vời.
Tất nhiên họ có biện pháp không thể để có thai, hoặc sau khi hảm hiếp
thủ tiêu.
Ở phía trước núi Lâm Sơn (林山)
thuộc dãy núi Laoshan, có hai phụ nữ Việt nằm trong lửa đã chết, chúng
tôi ngập ngừng đi về phía trước cách hàng chục mét. Hỏi lý do nào "Hai
người phụ nữ là kẻ thù của TC!" Một chỉ huy trưởng cho biết chết vì pháo
binh. Tôi nói, không đúng họ chết vì hai viên đạn súng trường theo lối
bóp cò, một tia bắn xuyên qua thung lũng thái dương tức khắc chết. Tôi
thấy trong tầm nhìn, người phụ nữ Việt, lông mày bắn lên sợ hãi, viên
đạn từ đầu cô nở ra, giật gân xương, đầu co lại một chút, sau đó mất hỗ
trợ trên cổ, tiếp theo thân và chân mất sức mạnh, cơ thể mềm lăng xuống
đất, họ bị thiêu xác phi tang. Một lập luận khác, lính TC hảm hiếp, sau
đó tẩy rửa phi tang chứng.
Tất cả điều này xảy ra trong chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc vào 1979-1989.
Một lính TC còn lương tâm nói. Tôi không muốn sống trong chiến tranh,
tôi không thể giết những người phụ nữ Việt Nam, chứng tỏ điều đó tôi
thường giúp đỡ nữ tù binh về thuốc men. Nếu tôi cần cơ thể phụ nữ thì
xin và có đồng tình cả hai, chính xác hơn tôi phải đặt mình trong phạm
vi đạo đức. 60 ngàn binh sĩ TC trên chiến trường Việt Nam chỉ mới có một
người chưa hẳng hoàn toàn lương thiện.
Rất
nhiều xác chết phụ nữ Việt Nam phía sau tôi, ông Dương Minh Vĩ (Yang
Ming Wei) và ông Hoàng (Huang) chính tay họ cắt xén thân thể của nữ tù
binh, ghê tởm nhất họ lấy từng bộ phận làm thịt nhậu với rượu, trên môi
của họ sảng khoái hút thuốc lá Hồng Tháp Sơn (Hongtashan).
Cũng ngày hôm ấy tôi nhớ, doanh trại VC bị tấn công, giao tranh khoảng
nửa giờ, TC kéo về chục xác chết của đồng đội, và pháo binh VC cắt đường
dây điện thoại liên lạc về căn cứ Laoshan.
Hai lính TC, Dương Minh (Yang Ming-杨明) và Hoàng (Huang-黄) chính tay họ cắt xén thân thể của nữ tù binh Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [5]
Chúng
tôi đi trong rừng nhiệt đới, ẩm ước khó thấy vệt sáng mờ, dễ dàng làm
mồi cho phục kích hay mục tiêu của tay súng bắn tỉa. Ở trong rừng cảm
thấy thời gian nào cũng có rủi ro, thê thảm nhất tử vong bằng khối lựu
đạn "Bạo phá đồng" (爆破筒).
Mỗi ngày sống trong tình trạng như vậy, khi ngủ đôi mắt cũng phải dè
chừng phục kích. Hôm sau chiến sự ác liệt tại núi trọc, một phần của Lão
Sơn để lại không bao nhiêu cây súng, nó đang âm thầm quan sát người
lính thương vong, trên chiến trường không thể dự đoán trước, một viên
đạn sẽ lấy đi tất cả mọi thứ của người lính.
Dừng
chân tại đỉnh núi, xa xa có đồi nhỏ, nơi quân đội TC trú đóng hơn một
trăm lính, chúng tôi vừa đến nơi chuyện trước tiên đào hố cá nhân giữ
mạng, đêm đó VC lẻn vào vị trí, nhưng rất may mắn được lệnh thu hồi binh
từ bộ chỉ huy Laoshan. Đối với tôi, cái chết không phải là một điều
khủng khiếp, bởi vì muốn nhận diện mặt trắng chiến tranh 1979-1989
phải chấp nhận gian lao và chết sống theo định mệnh. Như tất cả các
phóng viên chiến trường họ chết sống vì lý tưởng truyền thông hay vì đất
nước.
TC
tạo ra chiến tranh "tự vệ" chỉ để tàn sát trẻ em, giết sạch phụ nữ,
nhân dân, cướp sạch tài sản và cướp phần đất biên giới của VN! cho thấy
TC xâm lăng Việt Nam chỉ vì mục đích duy trì chiến sách quân sự gian
manh, một áp lực lớn đối với nhân dân VN hôm nay.
Rất
tiết VC không tuyên truyền cuộc chiến đúng như sự thật, không nâng sự
quan tâm hiểu biết của quần chúng về cuộc chiến tranh biên giới vào thời
điểm ngày 17 tháng 2 năm 1979-1989. Từ đó lòng dân đã mất phương hướng, Tổ quốc còn tồn hay đã vong, do đó chiến tranh bành trướng đã đi vào quên lãng!
ÿ Huỳnh Tâm
Tham khảo.
TÙ BINH CHIẾN TRANH VIỆT NAM-TRUNG QUỐC 1979-1989 – KỲ 4
Cựu
nữ tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc nhớ lại: Vào tháng 2 năm
1979, khi quân đội TC xâm chiếm VN với khẩu hiệu “phản công tự vệ”, tiến
quân từ quận Bàn Khê, Côn Minh, Vân Nam. Trong tháng TC đã lập hai trại
tù chiến tranh tổng cộng 771 tù binh, riêng huyện Quân Thành Quảng Tây
lập trại tù binh quân sự 1, 2 , 3, 4, 5. Quân đội tỉnh Quảng Tây thành
lập trại tù binh 6, 7, 8.
Cán
bộ quản chế trại tù binh giám đốc chính trị viên, dưới bộ phận tuyên
truyền, khoa học vật liệu, giao cho Quản Khoa (IMSS), trạm y tế và ba
đội canh phòng, mỗi đội canh giữ 120 tù binh, tổng số 995 tù binh, trong
đó có 117 tù binh nữ, 878 tù binh nam, cấp úy hơn 15 tù binh. Tháng 2
năm 1979, quân đội của tỉnh Quảng Tây, Vân Nam tiến vào biên giới Việt
Nam tiêu diệt 40.000 người, bắt sống 2.766 tù binh, họ gọi là kẻ thù của
chiến tranh. Đến cuối tháng 6 năm 1979, Trung Cộng khởi động trao đổi
tù binh chiến tranh. [1]
Ngày 17 tháng 2 năm 1979. TC xua quân chiếm biên giới VN. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Ngày
16 tháng 3 năm 1979, tạm kết thúc cuộc chiến tranh “tự vệ” để chuyển
qua chiến tranh “thu hồi biên giới”, tuy nhiên các cuộc xung đột vũ
trang biên giới Trung-Việt vẫn tiếp tục, tù binh thường bị bắt trong các
cuộc xung đột vũ trang.
Tháng
7 năm 1980, tỉnh Quảng Tây hình thành 1 trại tù binh chiến tranh mã
54.271, ở thời điểm này có 66 tù binh nam, 7 cán bộ, 59 binh sĩ. Ngoài
ra, những người đào trốn trại 48 người, trong đó có 10 cán bộ, 35 binh
sĩ, dân quân 3 người. Ngày 07 tháng 8 năm 1980, huyện Ngọc Khê, tỉnh Vân
Nam thiết lập tiểu đoàn quân sự tạm trú tại VN, đến tháng tư năm 1989,
ủy ban quân sự nhận được tổng cộng 94 tù binh. Ngoài ra, trốn trại 24
người, riêng văn phòng quân sự tỉnh, và phó tham mưu trưởng của bộ phận
hải ngoại, tiếp nhận hơn 160 tù binh, tất cả trao trả vào đầu năm 1990.
Chiến tranh biên giới VN-TQ, ngày 17/2/1979-1989. Trên 421 nữ tù binh Việt Nam tại trại Lâm Sơn tỉnh Vân Nam, Trung Cộng. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Cuộc
chiến tranh biên giới VN-TQ kéo dài hơn 10 năm, phía VN sử dụng tên lửa
bắn rơi Trung đoàn 921 pháo binh, Tiểu đoàn 371 pháo binh, 2 Captain
phi hành đoàn Thiểu Giáo. Trình Thủ Tông (John Chen), phó tham mưu
trưởng của các bộ phận không quân, và tổng cộng 1.926 tù binh TC bị bắt
bởi quân đội Việt Nam. Riêng tù binh VN bị TC bắt thuộc thành phần chính
quy quân đội, lực lượng dân quân, cảnh sát, nhân viên vũ trang khác.
Còn có những thành phần dân tộc thiểu số (kinh tộc-Jing), sống trong khu
vực biên giới Trung-Việt như dân tộc Choang (Zhuang), Miêu, Dao và Dai.
Theo báo cáo quản lý phân khu, nhân viên quân sự TC, có ba khía cạnh tù binh:
Thứ
nhất, cuộc chiến tranh trong môi trường dài hạn nghèo đói và lạc hậu
kinh tế, thói quen không còn khả năng kiên trì để tồn tại. Kể từ khi có
chiến tranh không bao giờ dừng lại, do nó chưa phải là xương sống của
chiến đấu liên tục, kinh nghiệm thực tiễn, đa số các binh sĩ trong quân
đội Việt Nam trước khi là thành viên của lực lượng dân quân hoặc huấn
luyện quân sự nhận được tại các trường trung học cơ sở, nó có một phẩm
chất quân sự nhất định. Chiến sĩ Việt Cộng không yêu cầu cuộc sống, nhất
là giới trẻ từ các vùng nông thôn, cho ăn ba bữa một ngày là đã hài
lòng.
Trại nữ tù binh tại Bác Lý Hà. Lịch sử diễn đàn Trung Quốc loan tải. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Thứ
hai, binh sĩ có tình cảm dân tộc hẹp hòi và quyền bá chủ của đảng kiểm
soát tư tưởng tối đa. Người chiến binh Việt Nam tự tin Việt Cộng một
cách quá mù quáng, họ suy nghĩ rằng “trong quá khứ đã đánh bại Nhật Bản,
Pháp, giặc Mỹ, VNCH, bây giờ đã trở thành sức mạnh quân sự thứ ba trên
thế giới, và xâm lăng Campuchia, kiểm soát Lào là “nghĩa vụ quốc tế.”
Trong khi đó Việt Cộng chưa sản xuất được thực phẩm nuôi quân, kể cả cây
kim sợi chỉ để khâu vá áo quần rách cũng không có, thử hỏi làm sao chế
tạo ra một viên đạn cây súng, nếu không có Trung Cộng, Liên Xô chung
cấp, viện trợ tối đa. [2]
Comments
Post a Comment