Những quy tắc giao chiến của Không lực Hoa Kỳ tại Việt Nam
Tác Giả: Mark Berent - Phi công phản lực tham chiến tại Việt Nam 1965-1973
Chuyển Ngữ: Thái Dương
(Tựa đề bài chuyển ngữ do tác giả thêm cho rõ ý nghĩa của bài viết)
(Phi
công Mark Berent cho rằng Mỹ và đồng minh Việt Nam có thể đã chiến
thắng tại chiến trường Việt Nam vào những năm 67, 68. Nhưng qua những vụ
ngưng ném bom trên đường mòn Hồ Chí Minh và miền Bắc Việt Nam, đã giúp
cho Cộng Sản Bắc Việt mang quân và vũ khí vào miền Nam để đi đến chiến
thắng cuối cùng vào tháng Tư 1975. Những phi công như ông đã bi trói tay
và bịt mắt trước những cuộc di chuyển ồ ạt của cộng quân.
Hãy nghe Mark Berent tâm sự… Nguyên tác là bài viết với tựa đề Rules Of Engagement, được in trong tác phẩm “To Bear Any Burden của Al Santoli".
Lần
đầu tiên tôi tham chiến tại Việt Nam là vào năm 1965. Ðơn vị của tôi
đóng tại căn cứ Không Quân Biên Hòa. Tôi bay phản lực cơ F-100s, tổng
cộng hơn 200 phi vụ. Lần thứ hai tôi tham chiến ở Việt Nam là vào
năm 1968, lúc đó tôi bay phản lực cơ F-4s cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái
Lan. Tôi thuộc phi đoàn Cú Ðêm (Night Owls), có nhiệm vụ bay trên đường
mòn Hồ Chí Minh trong vòng 7 tháng. Cuối cùng, 5 tháng chót tôi được
chỉ định chỉ huy Woff FAC (Lực Lượng Không Kiểm Tiền Phương (Forward Air
Control)). Lực lượng này bao vùng đường mòn Hồ Chí Minh từ Lào đến suốt
Bắc Việt Nam. Ðó là thời điểm mà Tổng Thống Johnson ra lệnh ngưng ném
bom. Do đó, có lúc các phi vụ được chấp thuận ném bom, có lúc phi vụ
không được chấp thuận. Chẳng cần dấu diếm, nhiều lần một số anh em phi
công chúng tôi tự thi hành nhiệm vụ thả bom đường mòn, mà không cho ai
biết.
Tại
Việt Nam, có vài điều rất đỗi ngạc nhiên. Thứ nhất là tôi được tưởng
thưởng nhiều huy chương. Nhưng có một trường hợp tôi từ chối nhận một
huy chương cao quý của Hoa Kỳ là Purple Heart, Lý do là vì một người bạn
Lực Lượng Ðặc Biệt của tôi vừa mới trốn được Việt Cộng bằng cách đi bộ
26 cây số trong đêm tối, với viên đạn 51 ly còn nằm trong một cánh tay
và tay kia dìu một người lính Việt Nam Cộng Hòa đang bị thương. Do đó,
đối với tôi, cái huy chương cao quý Purple Heart không có một giá trị gì
cả, tôi không xứng đáng để nhận!
Tôi hết
nhiệm kỳ tại Việt Nam và được chỉ định về phục vụ tại một căn cứ không
quân tại California. Không Quân Mỹ muốn xử dụng tôi hết mình và để tôi
thăng tiến hơn, họ gửi tôi đi học để lấy bằng kỹ sư tại một đại học dân
sự. Sau khi tốt nghiệp, tôi được bổ nhiệm một chức vụ khả quan về tiền
bạc và tương đối nhàn hạ tại Phi Ðoàn 69 Chiến Thuật, sống cuộc đời
thoải mái. Nhưng khốn nỗi, mỗi lần tôi cầm tờ báo thì lại được tin một
người bạn thân của tôi bị bắn hạ và tử trận tại chiến trường.
Không
chịu nổi nữa, tôi xin với thượng cấp để được bay F-4s, một phản lực cơ
tân tiến hơn so với F-100s và tôi đã được chấp thuận để trở lại chiến
trường Việt Nam.
Trong
7 tháng đầu khi bay F-4s cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái Lan. Tôi vẫn
thuộc Phi Ðoàn Cú Ðêm (Night Owls). Lệnh ngưng thả bom của Johnson bắt
đầu có hiệu lực một tháng trước khi tôi trở lại chiến trường. Do đó, phi
công chúng tôi không có cơ hội ném bom miền Bắc Việt Nam. Chúng tôi chỉ
còn biết bay ầm ì, rồi nhào lên lộn xuống trên đường mòn Hồ Chí Minh
bên ranh giới nước Lào. Ðó là dọc theo vùng rừng núi cao Karst Mountains
(Lào). Và nếu chúng tôi lợi dụng ngưng thả bom để bay xuống phía Nam
thuộc lãnh thổ Việt Nam để phá hủy những đoàn xe tiếp liệu của Cộng Sản
Bắc Việt dọc theo đường mòn, thì thực sự với F-4s không đủ khả năng này,
vì chúng tôi phải bay trong bầu trời dầy đặc sương mù và mây thấp che
kín tầm mắt quan sát. Nhiều lần chúng tôi cho một phản lực thả trái sáng
và sau đó phản lực khác theo sau thả bom.
Nhưng khi trái hỏa châu vừa thả ra là mấy tên lái xe Việt Công đều chửi thề: “Mấy
thằng phi công Mỹ ngu xuẩn đang sắp ném bom. Hãy ngừng xe lại và táp
vào lề đường. Trước sau gì chúng cũng đâm vào dãy núi Karst…” Và
đúng như thế, nhiều phi công của chúng tôi đã đâm máy bay vào dãy núi
này mà chẳng thả trúng một xe tiếp liệu nào, chỉ vì tầm nhìn quá hạn
chế do thời tiết.
Mãi
đến khi Mỹ mang máy bay Spectre–AC130 có trang bị vũ khí và có trang bị
cả dụng cụ quan sát ban đêm như màn hình TV và những dụng cụ điện tử có
thể cảm giác được khói bay ra từ ống khói của xe vận tải, đồng thời máy
bay này có khả năng nhìn qua đêm tối và mây mù.
Chúng
tôi liên lạc chặt chẽ với Spectre-AC130 để thực hiện 2 nhiệm vụ: Một là
áp lực những ổ súng phòng không của địch ngõ hầu chúng tôi có thể bắn
hoặc thả bom trúng mục tiêu. Thứ hai là hướng dẫn chúng tôi tới mục tiêu
cần tiêu diệt. Và kể từ đó, chúng tôi đã phá hủy rất nhiều xe vận tải
tiếp liệu của địch. Tôi nhớ rõ, một lần, trong một đêm tôi bắn trúng 14
xe tiếp liệu của địch.
Mỗi
khi máy bay Spectre-AC130 nhìn thấy đoàn xe, những phi công này sẽ đánh
dấu cho chúng tôi bằng nhiều cách. Họ tác xạ vào mục tiêu bằng súng
liên thanh 20 ly và cho chúng tôi biết đó là mục tiêu cần tiêu diệt.
Hoặc giả họ ném hỏa châu để soi sáng cả đoàn xe phía dưới và chúng tôi
cứ theo đó mà thả bom. Ngoài ra, họ còn có thể ném một khối hỏa châu
nặng, có khả năng cháy sáng tới 20 phút. Họ ném một khối hỏa châu này
trước đoàn xe và một khối khác phía cuối đoàn xe, và cho chúng tôi biết
cứ thế mà ném bom trong đoạn đường giữa hai khối ánh sáng. Vì vậy,
chúng tôi đã phá hủy được nhiều đoàn xe tiếp liệu của cộng sản. Ðường
mòn Hồ Chí Minh đã bị cầy nát làm trở ngại cho việc cộng sản chở tiếp tế
vào miền Nam Việt Nam. Thiển ý của phi công chúng tôi, chiến tranh đã
có thể chấm dứt bằng quân sự!
Nhưng
thật đau lòng, trong khi lệnh ngưng ném bom bắt đầu vào tháng 11 năm
1968, tất cả chúng tôi đau điếng! Anh em phi công chúng tôi đã trải qua
bao nhiêu lần được lệnh ngưng thả bom và mỗi lần như thế chúng tôi cảm
thấy như bị một quả đấm vào mặt, vì người ta đã phá tan đi những gì
chúng tôi đang thắng thế.
Thi
dụ, trong giai đoạn 1966-67, bạn bè chúng tôi, những phi công can
trường, đang bay các phản lực cơ F-105s và F-4s trên lãnh thổ Bắc Việt,
một nơi đầy nguy hiểm vì hỏa tiễn địa-không tối tân nhất SAM và màng
lưới ra-đa của Nga đầy rẫy dưới đất. Nhưng vì Những Quy Tắc Giao Chiến
(Rules Of Engagement), chúng tôi đã chiến đấu một cuộc chiến mà tay
chúng tôi đã bị trói chặt, mắt chúng đã bị chọc thủng mù lòa và một nửa
đạn dược trang bi đã bị cắt giảm.
Nhưng
những viên chức chính phủ như Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara thì
lại tuyên bố với công chúng rằng các phi cơ Mỹ không có bi cắt giảm bom
đạn và bom đạn Mỹ không bao giờ thiếu?. Nhưng thực tế, chúng tôi đang
chứng kiến bom đạn Mỹ ở Việt Nam đã bị cắt giảm nhiều, nhất là của
không Lực Mỹ! Chúng tôi đã chứng kiến bạn chúng tôi bay ra Bắc với trang
bị kém hơn thời Ðệ Nhị Thế Chiến, chỉ vỏn vẹn với 2 trái bom: 250 và
500 cân và 2 thùng bom lửa (Napalm) trong một phi vụ phá hủy đường rầy
xe lửa. Ðiều hiển nhiên là chúng ta không thể cắt đường rầy xe lứa bằng
bom lửa, mà thực ra bom này chỉ làm cháy cỏ và cây cối chung quanh đường
rầy!. Chúng tôi cho rằng quyết đinh ngưng ném bom và cắt giảm đạn dược
là MỘT TỘI PHẠM của những người có thẩm quyền. Nhiều khi chúng
tôi đã đối đầu với một số hoa tiêu từ chối lệnh bay ném bom, dù họ có
phải ra toà án quân sự!
Các quan
chức này lại nói loanh quanh rằng không có thiếu bom tại Việt Nam. Nhưng
tại Sài Gòn, những tầu thương mại chuyên chở bom đạn bị tắc nghẽn tại
các hải cảng, vì hải cảng không đủ rộng để có thể đem xuống những bom và
vũ khí lớn quá tầm trưc tiếp vào bờ. Trong khi đó, vũ khí nhỏ và dụng
cụ y khoa thì được Việt Cộng hối lộ và chở về mật khu.
Vào
thời điểm đó, tôi vẫn còn nghĩ rằng với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, chính
phủ Sài Gòn biết phải làm gì để chiến thắng. Nhưng một thời gian sau đó,
tôi nhận thức được rằng: “Hình như người ta (Mỹ) không muốn và không cho phép để thắng cuộc chiến tranh này!” chỉ vì Hoa Thịnh Ðốn đã áp đặt cái “Nguyên Tắc Giao Chiến “ oái oăm này!?
Chúng
tôi đành phải bay lên phía bắc Lào để yểm trợ cho Vang Pao, người lãnh
đạo của lực lượng H’mong, một bộ lạc sống trên đồi núi, đang chiến đấu
với quân cộng sản Bắc Việt và cộng sản Lào (Pathet Lào). Nhưng tại đây,
lại có lệnh không được thả bom gần các chùa chiền. Trong khi ai cũng
biết cộng sản Lào đang đóng quân đầy trong các chùa chiền ở Lào với đầy
đủ vũ khí. Nhiều lần chúng đã bị bắn từ chính trong các chùa. Có lần
chúng tôi không chịu được, đã bay qua chùa và thả một trái bom vào chỗ
có súng bắn lên, và ầm ầm kho đạn của địch nổ vang và cháy suốt mấy
tiếng đồng hồ.
Có
một câu chuyện ai cũng biết là ở Trung Tâm Văn Hóa Trung Hoa (Chinese
Cultural Center) tại Plaine des Jarres (Lào) như sau: Chúng tôi không
được lệnh ném bom trong vòng 3 cây số chung quanh trung tâm này. Vào một
đêm, một phi công tức khí lén thả một trái bom vào trung tâm này và kho
đạn ở đây đã nổ trong suốt một tuần lễ!
Sau
khi lệnh ngưng ném bom trên lãnh thổ Bắc Việt vào tháng 11 năm 1968,
chúng tôi chỉ được phép ném bom khi xe tiếp tế của Việt Cộng ở đường mòn
Hồ Chí Minh trên phần lãnh thổ nước Lào mà thôi, và chỉ được ném bom
vào ban đêm. Như vậy là chúng tôi gần như tự tử rồi! Ban đêm không thấy
đường, súng phòng không bắn như sao, chúng tôi chỉ còn cách đâm máy bay
vào dãy núi Karst là xong! Có một ngày quang đãng, tôi đếm được 100 xe
tiếp tế nối đuôi nhau tại Ðèo Mụ Giạ thuộc Bắc Việt Nam. Những chiếc xe
này đậu sẵn để đợi đêm tối di chuyển vào đường mòn. Và dĩ nhiên chúng
tôi được lệnh cấm chỉ thả bom đoàn xe. Ðó là quy tắc giao chiến đấy!!
Chúng
tôi cũng không thể thả bom đường xe lửa tiếp tế từ Trung Cộng vào Bắc
Việt. Mỹ cũng không thể phong tỏa hải cảng Hải Phòng… Tất cả những gì
Nixon làm năm 1972 là để Bắc Việt có cơ hội mang tiếp tế vào miền Nam.
Ðáng lẽ chúng ta phải chặn đứng việc cộng sản Bắc Việt tiếp tế vũ khí
cho chiến trường miềân Nam mới phải?
Vai
trò ưu tiên của Không Lực Hoa Kỳ là chặn đứng khả năng tiếp tế vũ khí
đạn dược vào chiến trường Miền Nam. Ðây là một sự “tuyệt đối phải ngăn
chặn.” Ðó là mục tiêu duy nhất của Không Lực hầu yểm trợ lực lượng Mỹ và
đồng minh tại Nam Việt Nam. Chúng ta phải ném bom các cơ sở chế tạo đạn
dược và vũ khí, vì chính nơi này sản xuất phương tiện để giết những
người lính Mỹ. Lý do nữa là Không Lực phải giúp lính tiêu diệt kẻ thù
dưới đấtø. Tất cả Không Lực làm, từ chuyên chở, đến chiến đấu đều chung
mục đích giúp cho toàn quân đội Mỹ ngoài chiến trường tại miền Nam Việt
Nam.
Nhưng
buồn thay, tại Việt Nam, chúng tôi đã không được phép thực thi những sự
“tuyệt đối phải ngăn chặn” này. Thử nghĩ xem Tù Binh Chiến Tranh Mỹ
(POW) do đâu mà có. 85% POW là hoa tiêu và phi hành đoàn. Họ bi bắn hạ
chung quanh những vị trí có hỏa tiễn SAM và phi cơ MIG. Nơi mà những hoa
tiêu này đã thấy từ khi cộng sản Bắc Việt và Nga Sô lúc còn dang xây
cất. Còn tại chiến trường Miền Nam, lính Mỹ chết bởi những vũ khí, đạn
dược và tiếp liệu do Bắc Việt chuyên chở vào Nam, mà chúng ta không ngăn
chặn được hay chúng ta không muốn ngăn chặn?!.
Chúng
tôi đã từng thấy từng đoàn xe vận tải nối đuôi nhau ngay ban ngày.
Những xe này thuộc Lực Lượng Chuyên Chở 559 từ Hà Nội đổ vào.
Chúng
tôi bay trên đầu đoàn xe và đôi khi chỉ cho chúng một chút sợ hãi bằng
cách ném xuống vài thùng xăng phụ hay một vài trái hỏa tiễn gọi là. Vì
chúng tôi không được phép mang cả phi đoàn phản lực đến đó để ném bom,
chỉ vì lệnh cấm.
Tôi
đã từng chứng kiến một làng người Thượng ở Nam Việt Nam bị Việt Cộng
ném lửa đốt cháy cả làng. Chúng đốt sống cả trẻ thơ, phụ nữ và tất cả
những gì còn sống, chỉ vì dân làng không chịu phục tùng lệnh của chúng.
Thật là đau lòng cho một cuộc chiến mà chúng ta không muốn thắng!
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
- Rules Of Engagement- Mark Berent
- To Bear Any Burden - Al Santoli
Comments
Post a Comment