Một bằng chứng bán nước của đảng cộng sản VN
Ngày
30 tháng 12 năm 1999, tại Hà Nội, hai ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm của
Cộng Sản Việt Nam và Đường Gia Triền của Tầu chính thức ký ‘Hiệp ước
biên giới trên đất liền’, chấp nhận ải Nam Quan cũ thuộc về Tầu. Hiệp
ước này được quốc hội Tầu thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2000, và quốc
hội Cộng Sản thông qua ngày 9 tháng 6 năm 2000. Từ đó, tiến hành việc
cắm lại mốc biên giới cho đến năm 2008. (Đây chính là một hiệp ước Bán
Nước mà Cộng Sản Việt thực hiện sau cái công hàm bán nước của Phạm Văn
Đồng)
Vì thế, trong sử sách của Cộng Sản Việt Nam,
không hề có chữ nào nhắc nhở đến Ải Nam Quan nữa cả. Và để yên tâm
hưởng quyền lợi mà không sợ bị Tầu Cộng giáng cho một bài học nữa, Bộ
Chính Trị Bắc Việt cấm không được ai nói đến việc đòi lại Ải Nam Quan.
Điều đau lòng và nhục nhã cho người Việt là có những kẻ cũng tin vào Tầu Cộng mà nói rằng Ải Nam Quan là của Tầu.
Cám ơn bài viết của nhà văn Chu Tất Tiến và blogspot BM đã cho phổ biến bài viết này.
Ải Nam Quan là của người Việt Nam
Có
lẽ không ai trong chúng ta, những người từng học Tiểu Học trước 1954
đều thuộc lòng câu: “Giang sơn ta chạy dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà
Mâu” và vẫn mang trong đầu hình ảnh một Ải Nam Quan với hai giai thoại
đặc biệt về cửa Ải này:
Mạc Đĩnh Chi 1280 - 1346
1-Năm 1308, Mạc
Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên. Vì đường gập ghềnh, nên đến cửa khẩu trễ,
quân canh gác bắt phải chờ đến sáng hôm sau. Thấy sứ bộ yêu cầu mở cửa
thành, viên quan phụ trách canh cửa ải thả từ trên lầu cao xuống một câu
đối, nói rằng nếu Đại Việt đối được thì họ sẽ mở cửa. Câu đối có nội
dung như sau:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
(nghĩa là: Tới cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua)
Một vế đối hóc búa đến 4 chữ quan và 3 chữ quá! Mạc Đĩnh Chi lập tức đối ngay:
Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh Tiên sinh tiên đối.
(nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời Tiên sinh đối trước).
Vế
đối của ông có 4 chữ đối và 3 chữ tiên, đúng với yêu cầu câu đối của
viên quan ấy và vì khá nhanh, nên quan nhà Nguyên phải phục và vội mở
cửa thành để ông đi qua.
Như thế, Ải Nam Quan đã hình thành trước thế kỷ 14 rồi.
2-
Nguyễn Phi Khanh làm quan cho nhà Hồ, tước Hàn lâm học sĩ rồi lần lượt
thăng lên Thống chương Đại phu, Đại lý tự khanh kiêm Trung thư Thị lang,
Tư nghiệp Quốc tử giám. Năm 1407, khi quân nhà Minh xâm lược nước Việt,
Nguyễn Phi Khanh tham gia đánh nhau với Tầu, nhưng bị thua và bị bắt
giải về Trung Quốc, qua cửa Ải Nam Quan. Nguyễn Trãi là con trai, đi
theo Cha đến tận Ải Nam Quan, rồi với hai hàng lệ lã chã, chia tay thân
phụ ngay tại cổng Ải, rồi về lại quê nhà, và đi tìm Minh Chủ để giúp
nước theo lời dặn của thân phụ. Việc này lại chứng minh là Ải Nam Quan
nguyên thủy đã có từ nhiều thế kỷ trước, và đường biên giới giữa hai
nước chạy ngang qua Ải Nam Quan, hiện nay nằm sâu trong lãnh thổ Tầu,
không phải cái kiến trúc hiện tại do Tầu xây sau này và hiện nay là điểm
giao thương giữa hai nước.
Nguyễn Trãi khóc cha là Nguyễn Phi Khanh tại ải Nam Quan
Thật
ra, không ai biết Ải Nam Quan được xây dựng vào thế kỷ nào, chỉ biết
trước đó, vào thế kỷ thứ 10, 11, và 13, quân Bắc phương từng tấn công
vào nước ta, đều xuất quân từ Ải Nam Quan cũ cách đường biên giới hiện
tại gần 2000 mét.
Theo http://ngodinhdiem.net/Lanh%20tho/AiNamQuan.html,
vào thế kỷ 19, trước khi ký hiệp ước Thiên Tân, quân Pháp và quân
Thanh đã đại chiến ở cửa Ải Nam Quan (hình A 3, “Trấn Nam Quan Đại
Chiến” minh họa cảnh giao chiến giữa quân Pháp và quân Thanh tại cổng
Nam Quan vào năm 1885). Sau đó, vì không muốn giao chiến dằng dai với
quân Tầu, thực dân Pháp buộc Việt Nam phải ký hiệp ước Thiên Tân công
nhận Ải Nam Quan là thuộc của Tầu, và bắt Việt Nam ta phải lùi ranh giới
vào sâu trong nội địa của ta. Sau đó, trong chiến tranh biên giới
Việt-Trung, tháng 2 năm 1979, Tầu đã mang hơn 200,000 quân tấn công sáu
tỉnh biên giới phía Bắc và đã chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng và
Lạng Sơn. Theo tài liệu của Bắc Bộ phủ, thì “Bộ binh Trung Cộng vào thị
xã Lào Cai bằng thung lũng sông Hồng, vào thị xã Cao Bằng theo thung
lũng sông Bằng và vào thị xã Lạng Sơn theo thung lũng sông Kỳ Cùng rồi
vào ải Nam Quan.” Khi ngưng chiến vào ngày 5 tháng 3 năm 1979, quân Tầu
lại lấn thêm một số vùng phía Nam của Ải Nam Quan, và thế là và trạm
quan thuế của Cộng Sản phải dời vào sâu trong lãnh thổ ta, từ 300 đến
400 m về phía Nam. Cộng Sản Việt Nam vì thế yếu, nên im thin thít, không
dám đòi lại đất.
Đến
ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Hà Nội, hai ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm
của Cộng Sản Việt Nam và Đường Gia Triền của Tầu chính thức ký ‘Hiệp
ước biên giới trên đất liền’, chấp nhận ải Nam Quan cũ thuộc về Tầu. Hiệp
ước này được quốc hội Tầu thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2000, và quốc
hội Cộng Sản thông qua ngày 9 tháng 6 năm 2000. Từ đó, tiến hành việc
cắm lại mốc biên giới cho đến năm 2008. (Đây chính là một hiệp ước Bán
Nước mà Cộng Sản Việt thực hiện sau cái công hàm bán nước của Phạm Văn
Đồng).
Vì
thế, trong sử sách của Cộng Sản Việt Nam, không hề có chữ nào nhắc nhở
đến Ải Nam Quan nữa cả. Và để yên tâm hưởng quyền lợi mà không sợ bị Tầu
Cộng giáng cho một bài học nữa, Bộ Chính Trị Bắc Việt cấm không được ai
nói đến việc đòi lại Ải Nam Quan. Điều đau lòng và nhục nhã cho người
Việt là có những kẻ cũng tin vào Tầu Cộng mà nói rằng Ải Nam Quan là
của Tầu.
Những
kẻ không có lương tri, không trí thức nên đồng thuận với Đảng Cộng Sản
Việt Nam và vỗ tay tán thưởng việc Ải Nam Quan là của Tầu, đồng thời chế
nhạo những ai muốn bảo vệ đất đai của Tổ Quốc khi đồng hóa cái Kiến
Trúc Ải Nam Quan với Mảnh Đất mà trên đó cái cửa Ải được xây dựng.
Một
điều vô cùng quan trọng mà chúng ta phải phân biệt là: 1) cái kiến trúc
Ải Nam Quân xây bằng gạch đá và 2) Mảnh Đất mà trên đó, cái kiến trúc
kia được xây lên. Người Việt đau lòng vì mất phần đất mà trên đó, cái
chòi canh mà Tầu đặt tên là Trấn Nam Quan, Mục Nam Quan đã xây, chứ
không ai thèm cái kiến trúc, cái chòi canh do Tầu phù xây!
Giả
dụ mà có đòi được lại phần đất đó, thì nhất định người Việt sẽ đập vụn
cái kiến trúc Tầu Phù đó đi mà xây lên một kiến trúc khác, chứ không ai
đi đòi một căn nhà mà kẻ khác đã xây lên trên đất mình. http://www.chuacuuthe.com/2014/03/ai-nam-quan/
Trở
lại chữ Ải Nam Quan. Chữ “Ải” là gì? “Ải” là một ranh giới, một đường
biên, một phân cách giữa hai lãnh vực. Người xưa có câu: Anh Hùng không
vượt qua được Ải Mỹ Nhân! Trong câu này, Ải Mỹ Nhân không phải là một
cái chòi canh, một trạm gác, mà là một biên giới vô hình giữa Thiện và
Ác, giữa tính Anh Hùng và sự đầu hàng trước giai nhân, giữa sự nghiệp
cao quý và tính tầm thường của một con người.
Còn
Ải Nam Quan ở đây, không phải chỉ là cái chòi canh được xây thành mấy
tầng, mà là một đường biên giới quanh co nằm vào vĩ tuyến 8o33, cực Bắc
của nước ta. Theo những tấm hình đã được chứng minh trong bài Ải Nam
Quan trước đây, Ải Nam Quan là một dẫy thành uốn lượn theo triền núi,
rồi từ một điểm thuận tiện giữa Ải, cả hai nước đồng ý mở một cánh cổng
thông thương, và vì Tầu là nước lớn hơn, giầu hơn, mạnh hơn, nên đã bỏ
nhân lực và tiền bạc ra xây cái cổng (chòi canh) này.
(Xin vào link: http://ngodinhdiem.net/Lanh%20tho/AiNamQuan.html để
nhìn thấy những tấm hình cụ thể về “cái gọi là” Ải Nam Quan, có thể là
một con đường đi lên Ải, có thể là dẫy nhà dân chúng cạnh dẫy nhà lính
tráng, cũng có thể là môt khoảng sân rộng trước cái chòi canh xây cất
cao nghệu…)
Trích đoạn một bài của Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Liêm về Ải Nam Quan:
“Ðất
nước của chúng ta càng nhìn về thuở xa xưa chừng nào càng rộng ra và
càng lùi sâu về phía Bắc chừng nấy. Chúng ta không có những bản đồ ghi
rõ những đổi thay đó qua thời gian dài mấy ngàn năm trước Tây Lịch.
Nhưng trong tâm hồn người dân Việt vẫn còn những mốc cấm phân chia ranh
giới giữa ta và Tàu. Mốc cấm thứ nhất là cột đồng Ðông Hán do tướng Mã
Viện cấm hồi khoảng năm 42 Tây Lịch. Mã Viện cho cấm trụ đồng nầy để
phân chia ranh giới giữa hai nước. Trên cột đồng có khắc câu “Ðồng trụ
chiết, Giao Chỉ diệt” mà đa số người Việt Nam đều nhớ nằm lòng. Câu đó
có nghĩa là khi nào trụ đồng gãy đổ thì dân Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt. Sợ
trụ đồng gãy đổ nên ông cha ta, mỗi người một viên đá cứ đem tới mà đắp
vào dưới gốc trụ đồng cho đến một ngày kia đá chất lên thành núi lấp
mất cả trụ đồng. Cột đồng Mã Viện ở đâu, nay ta không còn dấu vết gì cả.
Trước đây trong số các thức giả có người ức đoán vị trí của cột đồng
nằm trong vùng đất Cổ Lâu hay ở trong chân núi Phân Mao thuộc Châu Khâm
của tĩnh Quảng Tây bên Tàu.
sheet 6354-4 (U.S. Army Map Service)
Ải
Nam Quan nằm ở địa đầu tĩnh Lạng Sơn, cách Hà Nội 167 km về phía Ðông
Bắc. Lạng Sơn là một tỉnh lớn có 6,200 cây số vuông diện tích. Ở phía
Bắc, Lạng Sơn giáp giới với tỉnh Cao Bằng và Trung Hoa. Ở phía Tây là
tỉnh Bắc Kạn, phía Tây Nam là Thái Nguyên. Phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang
và phía Ðông là tỉnh Hải Ninh. Lạng Sơn ở trên cao độ thay đổi từ 100m
đến 1,000 m. Vì xa biển nên hơi lạnh so với Hải Ninh; nhiệt độ trung
bình ở đây là 21.7 độ C. Con sông quan trọng chảy qua Lạng Sơn là sông
Kỳ Cùng, dài 170 km. Khoảng cách từ Hà Nội lên tỉnh lỵ Lạng Sơn là 154
km về hướng Ðông Bắc. Từ dây đi thêm 2 km nữa là đến Phố Kỳ Lừa. Phố hay
chợ Kỳ Lừa lập ra hồi tiền bán thế kỷ XV, là một nơi buôn bán sầm uất. Ở
đây có món nem chua cũng rất nổi tiếng. Từ Kỳ Lừa đi thêm 10 km nữa thì
đến Ðồng Ðăng, nơi đây có nhiều phong cảnh đặc biệt.. Từ Ðồng Ðăng đi
thêm 5 km nữa là đến Ải Nam Quan. Phía Tây Phố Kỳ Lừa có động Tam Thanh.
Ðộng Tam Thanh cũng gọi là chùa Tam Thanh vì dây là ba hang động có thờ
Phật trong đó. Ðộng nhỏ nhất trong ba động là Ðộng Nhất Thanh trong đó
ngoài tượng Phật còn có thờ Ngô Thì Sĩ, cha của Ngô Thì Nhậm. Ngô Thì Sĩ
đỗ tiến sĩ năm 41 tuổi, làm quan đến Ðốc Trấn Lạng Sơn. Oâng là người
rất liêm khiết , rất thương dân, lo lắng giúp đỡ dân nên khi chết được
dân chúng tạc tượng thờ ở đây.
Trước
động Tam Thanh có núi Vọng Phu và tượng nàng Tô Thị mà câu chuyện
thương tâm đã được nhạc sĩ Lê Thương diễn tả trong những bảng nhạc Hòn
Vọng Phu bất tử của ông. Các địa danh nổi tiếng nầy cũng đã được người
dân Việt ghi lại trong những câu ca dao :
“Ðồng Ðăng có Phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”.
Từ
xưa tỉnh Lạng Sơn với cửa Nam Quan đã từng là nơi diễn ra bao nhiêu
biến cố lịch sử đau thương cũng có nhưng phần lớn là oai hùng của dân
tộc Việt. Ðây là nơi xảy ra câu chuyện “Hận Nam Quan” với lời dặn dò của
Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi “con phải trở về thay cha báo thù nhà
đáp đền nợ nước”, đánh dấu việc Nguyễn Trãi gạt nước mắt nghe theo lời
cha đau đớn quay về thao luyện binh tướng phò tá Bình Ðịnh Vương dành
lại độc lập cho xứ sở. Bao nhiêu binh tướng kiêu hùng của Trung Quốc đã
xông vào cửa ải nầy qua dày xéo lãnh thổ Việt, rồi cũng bao nhiêu binh
tướng đó mua lấy thất bại chua cay hoặc bỏ thây trên quê người hoặc nhục
nhã xác xơ chạy trối chết qua cửa nầy về Trung Quốc như Thoát Hoan (nhà
Nguyên), như Liễu Thăng (nhà Minh), như Tôn Sĩ Nghị (nhà Thanh).
Tiếc
thay! Lạng Sơn ngày nay phải chứng kiến một cảnh tượng đau lòng: cửa
Nam Quan không còn nằm ngay trên biên giới của tỉnh này và tỉnh Quảng
Tây nữa, nó đã lùi xa vào phần đất của Trung Hoa. Tiến Sĩ Nguyễn Thanh
Liêm.” (http://www.quocgiahanhchanh.com/tuainamquan.htm)
Với
những sự kiện rõ ràng đã ghi trong lịch sử như thế, Ải Nam Quan nguyên
thủy đã thực sự bị Tầu chiếm mất. Người Việt còn tinh thần yêu nước,
kính trọng Tổ Tiên, ngưỡng mộ và ghi ơn những chiến sĩ đã bỏ thân mình
mà bảo vệ cửa Ải này, phải tâm nguyện sẽ có một ngày dành lại giang sơn
mà Tổ Tiên đã bỏ bao nhiêu xương máu gầy dựng. Nếu chỉ an tâm hưởng
nhàn, quên nhiệm vụ quan trọng này, thì sẽ mang tội với Tổ Tiên, nếu
không muốn được coi là kẻ phản bội Tổ Quốc.
Comments
Post a Comment