Vạch mặt bọn hèn nhát của VNCH.
Xin mời đọc kỹ bài này để
nhận diện những kẻ phản bội.
On
Monday, July 6, 2015 1:43 PM, nang
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam
ở Thụy Sĩ
Cảm ơn tác giả Nguyễn Văn Lục và kính chuyển đến
quý bạn đọc và diễn đàn.
Lê
Hoàng
Kính chuyển đến một số huynh trưởng và bạn bè xa
gần đọc , tham khảo cũng như nhận định .
Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị
tác giả : nhà biên khảo Nguyễn Văn Lục
Biết
cái chết của anh mình do cộng sản cuồng tín sát hại một cách dã man, làm thế
nào họ vẫn có thể nhẫn tâm cúi đầu làm tay sai cho cộng sản?
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Hồ sơ
đen về những kẻ bội phản chính trị ̵
Trahison
politique ̵
trong nhóm trí thức thành phần thứ ba
Trích : http://dcvonline.net/2015/06/22/ho-so-den-ve-nhung-ke-boi-phan-chinh-tri-i/
Thầy
giáo/nhà văn Y-Uyên | Circa 1968
Có
thể có hai Hồ sơ đen: hồ sơ đen trong nước sau 1975 và một hồ đen ngoài nước.
Hồ sơ
đen thứ nhất nói về tội ác của cộng sản trong việc xô đẩy người miền Nam tìm
con đường thoát đi ra biển. Hồ sơ này đã được Michel Tauriac và nhà báo Hồ Văn
Đồng gọi là Hồ sơ đen về
chủ nghĩa cộng sản(1), Le dossier noir du communisme. Hồ sơ này
nhằm tố cáo về những chính sách tội ác của người cộng sản đối với người dân
miền Nam. Từ đánh tư sản mại bản đến đổi tiền và cuối cùng họ bị đẩy ra biển để
tịch thu nhà cửa.
Những
nạn nhân cộng sản chết trên biển trở thành lời tố cáo tính cách dã man và tàn
bạo đối với lương tâm nhân loại. Và thế giới đã gọi họ là những thuyền nhân,
Boat People.
Đây
là một hồ sơ đen như một tội ác diệt chủng (génocide) của chế độ cộng sản chống
lại con người. Bộ nội vụ cộng sản đã đề ra Kế Hoạch II nhằm quét sạch những
thành phần ‘rác rưởi’ thuộc ngụy quân, ngụy quyền, ném họ ra biển.
Trong
Hồi Ký của đại tá Châu Thái Hùng, ông cho biết việc mua bãi tại tỉnh Đồng Nai,
các xã ấp cứ lấy một cây vàng cho hai đầu người. 100 thuyền nhân thì phải trả
50 cây vàng.
Cũng
theo viên đại tá này:
“Thời
gian sau tình hình còn diễn biến theo chiều hướng phức rạp hơn. Đó là việc Bộ
Nội Vụ ra chỉ thị cho phép các cơ quan công an các tỉnh được quyền tổ chức vượt
biên (Lúc bấy giờ gọi là đi bán chính thức)”(2).
Chính
sách của Bộ Nội Vụ chẳng khác gì một cuộc xuất khẩu người để tich thu nhà cửa,
vàng bạc.
Ông
Bùi Xuân Quang ở Paris đã để công viết một tập hồ sơ đồ sộ gồm phối hợp vấn đề
địa chính tri, géopolitique, vấn đề lịch sử, xã hội trong một cuốn sách dầy 821
trang.
Ông
có đề cập đến vấn đề thuyền nhân mà theo ông Bùi Xuân Quang trong La
troisième guerre D’Indochine, 1975-1999(3) đem lại cho ngân khố chính quyền
cộng sản là 25 tấn vàng. Số vàng ấy trị giá tính ra tiền là 2 tỉ rưỡi Mỹ Kim.
Trong
khi đó, số người bỏ mình trên biển hiện nay là bao nhiêu? Không một tài liệu
nào cho biết chính xác cả. Có người cho rằng cứ ba người sống sót thì có một
nạn nhân xấu số.
Dù
không có con số chính xác thì hồ sơ đen tội phạm này của chế độ cộng sản Hà Nội
cũng cần đưa ra trước một tòa án Quốc tế. Trước khi bị xô đẩy ra biển, họ đã
mất nhà mất cửa, phải nộp vàng bạc cho mỗi đầu người.
Họ đã
bị trấn lột khi ra đi chỉ còn hai bàn tay trắng. Khi đến được xứ người. Bọn tay
chân của Hà Nội, đặc biệt qua Hội Việt Kiều Đoàn kết tại Canada một lần nữa,
trấn lột họ một cách tự nguyện: Họ com cóp từng đồng một để gửi về cho thân
nhân còn kẹt lại bên nhà. Nghĩa là họ bị trấn lột đến hai lần: Lúc ra đi và
ngay cả lúc đến định cư ở xứ người. Michel Tauriac gọi họ là những con bò sữa
bị vắt sữa đến hai lần. Vắt lúc ra đi và lúc tới nơi.
Câu
chuyện Hồ sơ đen thứ hai - cũng là mục tiêu chính của bài này- được viết lại
ngày hôm nay về nhóm sinh viên thiên tả nằm trong một tổ chức có tên là Hội
Việt Kiều Yêu Nước Tại Ca-na-đa(4), là một câu chuyện của quá khứ cách đây
có thể trên 40 năm. Tưởng đã chìm vào dĩ vãng mà nhiều người trong cuộc tin
chắc rằng họ có thể hạ cánh an toàn, gác lại chuyện dĩ vảng và an hưởng tuổi
già vì nay họ đều sấp sỉ tuổi 70 trở lên.
Câu
chuyện xem ra không đơn giản như họ nghĩ! Và dứt khoát những người tỵ nạn là
thuyền nhân trên biển còn sống sót sẽ không bao giờ quên được chuyện đó.
Hồ sơ
đen thứ nhất có thể đã được nhiều tác giả, nhiều sách vở đề cập tới.
Nhưng
hồ sơ đen thứ hai thì hầu như đã bị chìm trong quên lãng nay được khơi lại như
một hồ sơ nóng. Những người trong cuộc cần hiểu rằng, họ gián tiếp tay với
chính sách của cộng sản Hà Nội. Họ là cánh tay nối dài của cộng sản Hà Nội bằng
cách trấn lột tiền bạc, biến những người miền Nam còn kẹt lại trong nước thành
một thứ con tin.
Hiện
nay, DCVOnline.net đang đưa một loạt hồ sơ đen về những ai thuộc nhóm sinh viên
‘phản chiến’ và được gọi là thành phần thứ ba ra ánh sáng công luận về những
điều họ nói và nhất là về những điều họ làm.
Đây
là một công việc làm nghiêm chỉnh, mất nhiều công sức tìm tòi tài liệu nguồn!
Đưa ra tập hồ sơ đen (Dossier noir) của Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada này
không nhằm riêng rẽ một cá nhân nào. Và các tài liệu được trích dẫn đều dựa
trên những nguồn khả tín nhất hoặc trên băng thu âm, trên tài liệu viết thành
sách, trên các báo chí của thời đó.
Nó có
giá trị của loại tài liệu mang đúng tiêu chuẩn khoa học, đạt trình độ tri thức
luận và nhận thức luận cao.
Nói
một cách nôm na, tập Hồ sơ đen này dựa trên giấy trắng mực đen, có ngày tháng,
có hình ảnh đi kèm, không thêm bớt và vì thế khả năng phản biện và phủ nhận hầu
như là điều không thể.
Nó có
giá trị thuyết phục ngay đối với những người có tên trong Hồ sơ. Họ chỉ
còn biết im lặng tâm phục, khẩu phục!
Mục
đích tối hậu của Hồ sơ đen này là lột trần chân tướng của kẻ đứng đằng sau là
đảng Cộng sản ở Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam, qua hai hồ sơ đen này, bộc lộ
bản chất tàn độc nhất, dã man một cách tinh vi nhất, thất nhân tâm nhất và cũng
xảo trá nhất.
Người
viết xin thú nhận rằng khi lần đầu tiên tiếp nhận tập tài liệu The Vietcong
Front in Quebec – Mặt trận Việt Cộng ở Québec của Gilbert Gendron vào
khoảng đầu tháng tư. Người viết đã hoan hỉ đọc. Nhưng đọc xong lần đầu thì như
thể đụng phải một bức tường. Đọc lần hai và đọc đến lần thứ ba.
Nhiều
chi tiết quá không sao nhớ hết được. Đọc trước quên sau. Đọc lại tưởng như chưa
đọc.
May
mắn là sau đó có bài của Trà Mi, Đứng ngoài cuộc chiến. Bài này nó cho
thấy một cái trahison politique của đám sinh viên trẻ, trốn lính, nhưng lại
mang mặt nạ yêu nước lý tưởng, chống chiến tranh mà tiêu biểu là bốn người
trong một cuộc phỏng vấn của John G. Rogers, viết từ 45 năm trước, 14-6-1970,
cho tạp chí Parade và cũng đăng trên tờ Washington Post, một tờ báo thường có
truyền thống chẳng mấy tốt đẹp gì với miền NamViệt Nam cả. Bốn người này có thể
nay chẳng nhớ họ đã phát biểu gì trong cuộc phỏng vấn đó. Bốn người trong bức
hình là Lương Châu Phước, Đỗ Đức Viên, Trần Tuấn Dũng và Nguyễn Văn Nhã.
Sinh viên “yêu nước” trốn
quân dịch không về nước: (từ trái qua phải): Lương Châu Phước, Đỗ Đức Viên,
Trần Tuấn Dũng, và Nguyễn Văn Nhã. 1970. Nguồn: Tạp chí PARADE/Washington Post
June 14, 1970
Người
nào trông mặt mũi cũng thông minh, bảnh bao mà tâm địa sao hèn kém thế. Bọn
trốn lính!
Với
lời chú thích mỉa mai của người đi phỏng vấn ngay từ năm 1970 mà các chàng
‘ngây thơ’ chẳng hiểu rõ thâm ý của nhà báo.
“Sitting
out the war: South Vietnamese students evade service by refusing to go home.
Most arrived on Canadian government scholarship.”
Người
viết xin tạm dịch với vốn tiếng Anh ăn đong như sau:
Ngồi
ngoài cuộc chiến ở Montréal: các sinh viên của miền Nam đã trốn lính bằng cách
từ chối quay trở về miền Nam. Hầu hết họ đã đến đây qua học bổng của chính
quyền Canada.
Trong
đó, trừ Đỗ Đức Viên, ba người kia sau này đều có chức vụ, giữ vai vế quan trọng
trong Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Ca-na-đa. Định mệnh sắp xếp chăng?
Trong
hình, người viết, do một người bạn đã giúp, nhận diện ra Nguyễn Văn Nhã giống
hệt nhà văn Y Uyên, một chuẩn úy Địa phương quân đã hy sinh tại Phan
Thiết. Đúng là cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Người anh làm anh hùng, thằng
em bất nghĩa theo giặc!
(T) Thầy giáo/nhà văn Y-Uyên
| Circa 1968. (P) SV phản chiến Nguyễn Văn Nhã, 1970. DCVOnline tổng hợp
Tiếp đến bài của Lê Quốc
Trinh, Lời sám hối muộn màng. Có thể Lê Quốc Trinh đã cho nổ một quả bom
nổ chậm trong nội bộ đám Việt kiều yêu nước. Lời văn, giọng điệu chân thật, chữ
dùng hầu như chưa gọt dũa, còn nguyên vẹn bản chất con người của một người có
thói quen ‘cầm búa sửa nhà’, tay chắc dính dầu, bùn đất vì vốn là kỹ sư làm
trong ngành mỏ như tác giả tự mô tả.
Chính
ở chỗ đó làm nên cái đẹp của tác giả.
Tác
giả mở đầu, Hôm nay ngày 3 tháng 3 năm 2015, tôi quyết định viết bài sám
hối…
Và
lời cuối trong bài Sám Hối:
“Nghĩ
lại thời gian đã qua, tôi thầm tiếc nuối cho một đời thanh niên đã bị lừa dối,
bị đánh cắp và cảm thấy rất ăn năn vì đã không trực tiếp góp phần với cuộc đấu
tranh đòi lại công lý cho toàn thể nhân dân miền Nam.”
Tôi
đã đọc nhiều những sách viết về thái độ phản tỉnh của các nhà văn trí thức như
Thanh Lãng, Chân Tín, Lê Hiếu Đằng, Tiêu Dao Bảo Cự, Đào Hiếu, Ngô Công Đức,
Trần Đức Thảo, Tô Hải, Hoàng Hữu Quýnh, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ, Hà Sĩ Phu,
Hoàng Minh Chính, v.v.
Nhưng
đây là lời sám hối khác hẳn các trường hợp trên.
Không
phải người trong đảng, hoạt động nhiều năm trong lòng chế độ. Nhưng ông là một
cựu sinh viên ở hải ngoại, có trình độ, có dịp sống trong môi trường xã hội
chính trị có truyền thống dân chủ. Vậy mà từ năm 1973, ông đã tự nguyện hoạt
động cho cộng sản qua hội Việt kiều yêu nước.
Lời
thố lộ của ông mộc mạc mà cũng trung thực nhất! Thẳng thừng không úp mở.
Và
theo đúng tinh thần ngưởi chủ chiên trong Phúc Âm kể lại là mỗi khi có một con
chiên trở về thì người chủ chiên sai mở tiện ăn mừng sự trở về ấy. Tôi cũng có
niềm hân hoan ấy khi đọc Lời sám hối của Lê Quốc Trinh. Ông Lê Quốc
Trinh đã có thời là bè bạn, là đồng chí của những thành viên trong Hội Việt
Kiều Yêu Nước Tại Ca-na-đa. Mặc dầu gia nhập hội trễ năm 1973, nhưng ông là
người có công đóng từng cái bàn, cái ghế, ngăn phòng, sửa chữa hội quán ở số
1450 Beaudry, năm 1980. Những tiết lộ của ông giúp phần đông bạn đọc, những
‘boat People’ hiểu được cái tổ chức trên cũng như công việc của họ.
Tuy
nhiên tôi cũng không đến nỗi quá ngây thơ đển tin rằng một ngày nào đó những
Nguyễn Văn Nhã, Trần Tuấn Dũng, Quách Tinh Văn, Lương Châu Phước lại có thể có
lời sám hối tương tự.
Bởi
vì trong một bài viết nhan đề Nhân đi thăm Tích Lan, trong nhóm sinh viên
Colombo 1964, ông Lương Châu Phước trong phần kết luận có viết:
“Thôi
thì cũng phãi tự tha thứ và tự an ủi rằng ít ra là mình biết nhớ ơn, dù có muộn
màng và sau khi đã nhận lãnh sự giúp đỡ, đã không làm điều gì sai quấy, không
đem phiền muộn cho ai…”
Điều
này cho thấy, ông Lương Châu Phước không nhận thức rõ được việc làm của ông
trong Hội Việt kiều yêu nước của ông. Tôi đã có dịp đọc tờ Đất Việt do ông làm
“Tổng biên tập”. Một số nội dung báo Đất Việt cho thấy tính cách tuyên truyền
từ cách chọn bài, chọn tác giả, chọn thông tin, tên tuổi các ông cộng sản như
Nguyễn Cơ Thạch, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng. Chắc rằng ông đã viết sai sự thật
hay che dấu sự thật không ít.
Cộng
tác viên trong nước thì có Trần Bạch Đằng, Sơn Nam, Vũ Hạnh. Hoàng Phủ Ngọc
Phan, Ngọc Linh. Đặc biệt đăng truyện dài Ông cố vấn của Hữu Mai. Hữu
Mai là Trần Bạch Đằng.
Cảm
tưởng của tôi là nó giống như một tờ báo đảng ở Sài Gòn. Báo in và xuất bản ở
Montréal của Hội Việt kiều mà tuyệt nhiên không có bài vở, sinh hoạt ở đây!
Chỉ
xin gửi đến ông một số đề thi tú tài hai bên Pháp năm nay cho 685.000 thí sinh.
Riêng thí sinh ban Khoa học thực nghiệm (S) thì đề thi triết năm nay như sau:
“La
politique échappe-t-elle à l’exigence de la vérité?” Làm
chính trị có cần tôn trọng sự thật không?
Chắc
là ông không làm được bài thi này. Tôi là thầy giáo dạy môn Triết, đành đánh
rớt ông thôi!
Với
tư cách một người đọc, một người đứng xa, đứng ngoài không có quan hệ quen biết
gì với đám người trong tổ chức trên, trừ một hai người vốn quen biết sẵn, tôi xin
đóng góp như cái nhìn thứ hai (second regard) vào tổ chức này.
Cái
nhìn của người viết mang tính cách đánh giá và phê phán cá nhân cũng như tổ
chức này và đặt ra một số câu hỏi.
Hài
danh tính một số thành viên phản bội chính trị trong tập Hồ sơ đen ở hải ngoại
Cho
đến nay, đa số trong số gần 40.000 người Việt sinh sống và định cư ở Montréal
đã không hề biết gì về những thành viên trong tổ chức hội Việt kiều yêu nước
cũng như công việc họ làm.
Đó là
một thiếu sót mà người viết thấy cần thiết phải làm.
Nhiều
người từng là thành viên của nhóm Hồ sơ đen Việt kiều yêu nước nay đã chọn sự
im lặng và tránh mọi tiếp xúc hay tránh không muốn cho phỏng vấn.
Tại
sao họ phải làm như vậy?
Chỉ
vì nay họ biết cái trách nhiệm, cái sai phạm mà họ đã làm trong quá khứ cách
đây 40 năm! Họ không muốn ai nhắc tới nữa.
Tiêu
đề Trahison Politique là muốn nhấn mạnh là tất cả thành viên của Hội này đều
gốc gác ở miền Nam hoặc di cư từ Bắc vào Nam trong cuộc di cư năm 1954-55. Họ
đã được ăn học, giáo dục đến nơi đến chốn cho đến lúc đỗ xong hai bằng tú tài.
Không
có miền Nam, không có nền giáo dục tốt đẹp của miền Nam, không có sự chọn lựa
công bằng trong sự tuyển chọn thì dù họ học giỏi – Tôi nhận thức một cách không
khâm phục – khi trong thâm tâm, họ cho rằng, họ giỏi nên chẳng cần ai, họ đương
nhiên được đi du học.
Nói
thật, không có những điều kiện ắt cỏ và đủ ở miền Nam. Thân phận họ không được
như vậy!
Vậy
mà họ chưa một lần biết cám ơn miền Nam. Họ cũng chưa hề đóng góp công sức ngay
cả phục vụ trong quân ngũ như những thanh niên khác đồng lứa tuổi với họ.
Họ
thiếu cái tình con người mới không hiểu rằng biết bao nhiệu thanh niên cùng
trang lứa với họ đã phải nhập ngũ, ra chiến trường và chết thay cho họ. Tôi đọc
Đỗ Lệnh Dũng của Lê Thiệp và cảm thức được cái oan nghiệt của cuộc chiến
tranh(5). Mười tám tuổi, hào hùng, lúc nào điếu thuốc lá cũng trên môi như một
thách thức, từ giã tuổi trẻ Sài Gòn, từ giã cha mẹ, nhập ngũ, rồi mất tích giữa
Chiến Khu D sau một trận đánh dữ dội.
Thử
hỏi xem họ có cái gì hơn Đỗ Lệnh Dũng?
Trường
hợp Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Văn Hương và nhà văn Y Uyên
Tôi
biết nhà văn Y Uyên đã lâu. Nhưng lại không bao giờ có ý tưởng liên kết nhà văn
chết trước 1975 với hai người em của ông ở Canada, cho đến khi tôi viết bài
này.
Thật
là một cái duyên kỳ lạ.
Gia
đình Y Uyên vốn người Bắc di cư. Ông cụ bị cộng sản lên án tử hình khiếm diện.
Năm 1954, ông cùng với đại gia đình di cư vào Nam và định cư tại Gò Vấp,
nơi có đông đồng bào công giáo di cư lập nghiệp. Gia đình ông theo đao Phật.
Căn nhà của gia đình Y Uyên ở số 109-2C đường Thống Nhất, quận 11, Gò Vấp.
Ngày
8 tháng 1, năm 1969, nhà văn Y Uyên đã vĩnh viễn ra đi. Trước khi ra đi, anh
cũng đã gửi cho Ng., người yêu của anh, kể chuyện về đêm Noel lạnh lẽo ở núi
đồi với một lời chúc, Mừng em ăn tết, năm mới thật nhiều bánh kẹo.
Năm
nào gia đình anh cũng làm lễ giỗ, tổ chức long trọng và mời bạn bè anh đến dự.
Nguyễn Văn Hương, em ông, là người mong muốn tái bản 6 tác phẩm của anh mình.
Như
nhiều thanh niên khác đã không được cái may mắn như họ và nhiều người đã hy
sinh vì lý tưởng quốc gia như trường hợp chuẩn úy Nguyễn Văn Uy – bút hiệu Y
Uyên. Ông đã hy sinh tại đồi Nora, gần chân núi Tà Lon (còn gọi là Tà Zon, Tà
Dôn), Bình Thuận năm 1969, lúc vừa 29 tuổi.
Chuẩn úy Nguyễn Văn Uy – nhà
văn Y Uyên – trước hầm trú ẩn ở đồn Nora, vùng núi Tà Dôn, Bình Thuận. 1969.
Nguồn Thư quán Bản thảo số tháng 2/2005
Bạn
bè thân hữu, nhà văn rất đông trong tạp chí Văn đã ra số tưởng niệm ông. Tên
tuổi nhiều người như Thư Trung, Võ Hồng, Mường Mán, Huỳnh Phan Anh, Thanh Tâm
Tuyền, Trần Phong Giao, Cao Thoại Châu, Trùng Dương, Nguyễn Mạnh Côn, Trần
Huiền Ân, Lê Bá Lăng và người bạn chí thiết của ông Mang Viên Long, v.v.
Nhắc
tới ông, vì ông là anh ruột của những kẻ đã phản bội miền Nam là Nguyễn Văn
Nhã, và Nguyễn Văn Hương.
Thật
uổng phí cho sự hy sinh cao cả của cố thiếu úy Nguyễn Văn Uy. Và cũng thật đáng
hổ thẹn vì ông có hai người em ruột bất xứng.
Ông
Nguyễn Văn Nhã nay là đại gia. Người ta nói với tôi như thế. Vợ ông cũng là thứ
đại gia giầu ngất ngưởng. Ông không thể ngờ rằng có ngày hôm nay, có một nhóm
người cầm bút trước 1975 trong Thư quán Bản thảo. Họ đã có lòng và bỏ công sức
thời giờ cũng như tiền bạc, đã sưu tập tất cả truyện ngắn của nhà văn Y Uyên.
Và in lại trong Tuyển Tập truyện thời chiến của nhà văn có tên tuổi mà
tuổi đời mới 29, người miền Nam, một chiến sĩ Việt Nam Công Hòa đã nằm xuống
năm 1969.
Tôi
xin trích lại một bài thơ cuả Trần Huiền Ân đăng trên Bách Khoa tháng 01-69 để
tưởng nhớ Y Uyên với những câu:
“Mình
tôi ngồi đây thương tiếc anh
Càng
thêm căm uất cuộc tương tranh
Đầy
sông máu đục tình huynh đệ
Xương
trắng từng phơi biết mấy thành”
Tôi
cũng xin trích dẫn lời giới thiệu tập sách của nhà văn Y Uyên được Thư Quán Bản
Thảo in lại ở hải ngoại:
“Việc
sưu tầm 9 truyện ngắn này quả thật là cả một sự khó khăn đối với chúng tôi…
Chúng tôi phải nhờ những bạn bè cầm bút cũ trong nước ra công tìm kiếm những
sáng tác của ông đăng rải rác trên những tạp chí văn học miền Nam trước 1975
[…] Những trang tạp chí ấy hôm nay đã ố vàng với thời gian, nhưng truyện ngắn
của Y Uyên vẫn không-và-không-bao- giờ ‘ố vàng’ trong lòng độc giả miền Nam,
trong lòng bạn bè của ông hôm nay.”(6)
Là
trai thời binh lửa thì chuyện gục ngã ở sa trường là chuyện thường ngày trong
suốt cuộc nội chiến Việt Nam. Nhưng cái chết của chuẩn úy Nguyễn Văn Uy không
phải là một cái chết bình thường. Xin trích một đoạn trong bài Núi Tà Dôn và
dấu chân Uy của Lê Văn Chính (Sương Biên Thùy) đã đăng trong Tạp Chí Văn,
số 129, phát hành ngày 1 tháng 5 năm 1969 – Số đặc biệt thương nhớ Y-Uyên.
“11.1.69
Tôi
nghĩ Uy sẽ không bị chết nếu bị bắt, nếu Uy biết cách nói cho những người ở
phía bên kia biết Uy là một nhà văn. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp, sau khi bị
bắt, Uy sẽ được ra Hà Nội, và guồng máy tuyên truyền phía bên kia sẽ khai thác
nhà văn của chúng ta. Nhưng tất cả những điều tôi tưởng tượng đều trái ngược
với thực tế, một thực tế phũ phàng, tàn nhẫn: Y Uyên, sau khi chết rồi, còn bị
bắn bồi mấy phát súng ở mắt, tai và đâm bồi thêm mấy nhát dao ở hai cánh tay và
hai bên hông.
Tôi
không có mặt khi bạn hữu tẩm liệm chàng, nhưng Học nói lại những nhận định như
thế khi quan sát xác chết với những dấu đạn, dấu dao trên mình chàng. Có những
dấu đạn người ta biết được là từ đâu, như thế nào, và người ta cũng biết được
những dấu đạn nào là vô ích, là của hận thù. Trên thân xác của Uy, khi chở về
Quân y viện, có những dấu đạn thừa, những dấu dao vô lối. Những dấu đạn, vết
dao không thể cắt nghĩa được. Nếu không phải là chúng có từ những thù hận ghê
gớm, những chất ngất căm hờn, thì không thể làm sao tìm ra lý do giải thích sự
hiện diện của chúng trên thân hình một người đã chết.
Từ
những dấu đạn vết dao đó, tôi có một nhận định về những người ở bên kia chiến
tuyến. Tôi không hiểu bằng cách nào, trong cuộc chiến tương tàn, ròng rã hơn
hai mươi năm này, những người lãnh đạo cộng sản đã dạy cho binh lính của họ như
thể nào để lòng thù hận chất ngất mênh mông đến thế? Tôi chấp nhận những viên
đạn thứ nhất là hợp lý – Ừ, thì cứ cho là hợp lý. Nhưng những viên đạn bắn bồi,
những nhát dao đâm thêm trên một xác thân đã chết là những viên đạn, những nhát
dao không thể cắt nghĩa, không thể chấp nhận được. Những người Cộng sản Việt
Nam đã làm những điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận, từ sự cuồng tín.
Từ đó, chúng ta có một nhận thức mới, họ mù quáng trong khi chiến đấu, họ không
mảy may hiểu về những căn nguyên cuộc chiến tương tàn này.”(7)
Tôi tự
hỏi, cách ứng xử nào được coi là tốt đẹp nhất, nếu tôi là em của của cố thiếu
úy Nguyễn Văn Uy!
Tôi
cũng hỏi Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Văn Hương như thế. Tôi thật sự không hiểu được
con người các ông Nhã và Hương. Họ đã có một người anh, một nhà văn, một người
anh đã hy sinh ngoài chiến trường(8).
Khi
Nguyễn Thái Bình, một sinh viên du học ở Hoa Kỳ, ngày 1 tháng 7, 1972 trên
đường về nước, âm mưu cướp máy bay và bị giết, xác ném xuống phi đạo thì một số
người trong HVKYNTC mà hai ông Hương và Nhã là thành phần lãnh đạo đã định
chiếm lãnh sự quán của Mỹ ở Montreal để trả thù cho đồng chí/không tặc(9). Tôi
lại tự hỏi, thế những người thân cộng đó và cả hai anh Hương và Nhã đã nghĩ gì
và đã định làm gì khi biết chuẩn úy Nguyễn Văn Uy chết như thế nào bên một dòng
suối ở chân núi Tà Dôn vào ngày 8 tháng 1, 1969.
Biết
cái chết của anh mình do cộng sản cuồng tín sát hại một cách dã man, làm thế
nào họ vẫn có thể nhẫn tâm cúi đầu làm tay sai cho cộng sản?
Tôi
chỉ hỏi họ điều đó thôi. Điều mà tôi cũng đã hỏi tiến sĩ triết học Thái Kim
Lan, cha bị Việt Minh sát hại lúc 5 tuổi chỉ vì làm công chức bưu điện cho
Pháp. Nghĩ tới cảnh mồ côi cha, biết bao thiệt thòi, vậy mà cũng cúi đầu đi
theo cộng sản?
Thật
sự tôi không hiểu được họ, Tôi không thể nào hiểu được họ. Họ có đầu không, có
trái tim không? Có một chút lòng thương tiếc anh mình không?
Và
nhất là họ có còn bản tính người không? Nếu không, họ còn thua cả loài súc vật.
Hoàn
cảnh miền Nam mà mỗi người mỗi phía là hoàn cảnh không tránh được. Phần tôi,
tôi có một người anh ruột, bị tù cộng sản trên suốt 20 năm. Và tôi nghĩ rằng,
tôi không cần biết họ là ai, là cộng sản hay không cộng sản. Kẻ nào ám hại anh
tôi thì tôi căm thù họ suốt đời.
Tâm
trạng ấy, tại sao lại không có được nơi Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Văn
Hương?
Sau
đây, tôi xin ghi chép đầy đủ tên một số những thành viên của Hội Việt Kiều Đoàn
Kết Tại Ca-na-đa.
- Vĩnh Anh.
- Võ Văn Bang, đại gia ở Việt Nam.
- Tạ Công Bằng, về Việt Nam và chết đuối một cách bí ẩn ở sông Trà Khúc.
- Thục Bình.
- Phan Minh Dũng và vợ.
- Trần Tuấn Dũng, Phân hội trưởng Phân hội Sinh viên HĐKVKTC, Phó Giám Đốc Vinamedic Inc., công ty xuất cảng dược phẩm và vải may mặc, thành lập năm 1981, thuộc nhóm Đổi Mới, có mặt ở Hà Nội năm 1988.
- Phan Kim Điển, thành viên Hội
đồng quản trị Q.T.K Express Inc và CIIC Internatioal Investment &
Trade Corporation mà giám đốc là Nguyễn Văn Hương.
Phí Thịnh Đức, giáo sư khoa kỹ sư Điện tại đại học Moncton. - Hoàng Hải Học, giáo sư trường Ecole Polytechnique, Montreal, không có mặt ở trong phiên họp tháng 10, 1988, nhưng được cộng sản giao trách nhiệm trong buổi họp giải quyết tranh chấp hai phe.
- Nguyễn Mạnh Hùng, dạy khoa kinh tế đại học Laval, sinh hoạt văn học với bút hiệu Nam Dao.
- Nguyễn Văn Hương, cựu chủ tịch HĐKVK đến năm 1986, giám đốc Q.T.K. Express Inc., và CIIC Internatioal Investment & Trade Corporation, em của nhà văn Y-Uyên. Nay thì Nguyễn Văn Hương thường ở Việt Nam.
- Lưu Liên, nhân viên quản lý của Laser Express Inc. Bị thất sủng và khai trừ ra khỏi mọi chức vụ.
- Phí Thịnh Long, Toronto.
- Nguyễn Xuân Lộc.
- Tôn Nữ Thị Nga, Chủ tịch Vietimex.Inc, vốn là 98.000 đô la, Lưu Liên Phó chủ tịch, Huỳnh Hữu Tuệ, Phó chủ tịch và Lê Tiền Phong, Tổng thư ký.
- Nguyễn Văn Nhã, Phân Hội trưởng, Phân hội Trí thức HĐKVKTC, Giám đốc Vietimex Inc. và Giám Đốc Vinamedic Inc. Nhã còn thành viên Mặt Trận tổ quốc. Nhã thuộc nhóm đa số thuộc Thành Viên Ban Thường Vụ. Nhã cũng có mặt theo sự triệu tập của Hà Nội năm 1988 để giải quyết tranh chấp giữa hai phe: Phe Thường vụ và phe Đổi Mới. Công ty Vinamedic của Nhã có những thùng thuốc gửi bằng Telex về Việt Nam. Có các thùng 55 đô la Mỹ, thùng 100 đô la Mỹ và thùng 200 đô la Mỹ. Có những thùng đặc biệt lên đến 220 đô la và 320 đô la.
- Oanh, trong nhóm Thường Vụ.
- Lê Tiền Phong, Thái Thị Khánh Hạnh, vợ Lê Tiền Phong; chồng về Việt Nam năm 1988, theo lệnh triệu tập của Hà Nội, ở trụ sở Ban Việt Kiều Trung Ương. Ông đứng về phe Thường vụ-Kinh doanh như trong hồ sơ Vixileaks của Trần Giao Thủy tiết lộ. Ông đã qua đời vì ung thư phổi khi quay trở lại Canada.
- Đinh Văn Phước và vợ.
- Lương Châu Phước, nguyên Tổng Biên Tập (Chức vụ giống hệt như ở Việt Nam sau 1975) tờ Đất Việt, được trả lương, được cung cấp xe hơi. Đã mất job chủ báo từ năm 1987 nhưng cũng về Việt Nam năm 1988, thuộc Nhóm Đổi Mới. Hội Việt Kiều đoàn kết vỡ làm hai năm 1990, và hoàn toàn ngưng hoạt động sau 1991. Nay Lương Châu Phước lấy cửa chùa làm nơi nương tựa. Bỏ dao thành Phật.
- Lê Phúc và vợ
- Lê Hữu Phùng, bác sĩ tốt nghiệp ở Pháp. Chủ tịch ủy ban cố vấn HĐKVKTC, thành viên Hội Đồng quản trị Laser Express.
- Dương Quý
- Nguyễn Minh Sang, đại úy nha sĩ, đào ngũ. Chụp hình cùng vợ con, trên mặt bàn còn để chiếc mũ kêpi sĩ quan, nhưng đằng sau treo cờ giải phóng. Ở Toronto, đã cộng tác với tờ Đất Việt. Con trai y, cũng là nha sĩ, cũng đi theo vết chân lấm bùn của bố. Cha nào con nấy!
- Đỗ Lâm Sinh.
- Nguyễn Kỳ Toàn, dạy đại học Quebec tại Trois-Rivières.
- Nguyễn Thị Thanh, vợ Lương Châu Phước.
- Lê Quốc Trinh, kỹ sư khai khoáng. Tác giả Lời sám hối muộn màng, Đôi lời tâm sự và bài Yêu nước hay yêu tiền đã đăng trên DCVOnline.net
- Võ Văn Trương, giáo sư đại học Moncton.
- Võ Quang Tu, nhân viên của tòa đại sứ Việt cộng năm 1979. Trong Hội Đồng Quản trị của công ty Laser Express Inc. thành lập tháng 7, năm 1980 cùng với Lê Hữu Phùng, Mai Tất Đắc, Nguyễn Cao Đàm, Nguyễn Như Thường. Trị giá cơ sở địa ốc của công ty là 239.900 đô la vào năm 1986.
- Nguyễn Đức Tuấn.
- Phạm Ngọc Tuấn, trong Hội Đồng Quản trị Vietimex Inc. Công ty này giải thể năm 1997.
- Huỳnh Hữu Tuệ, giáo sư khoa kỹ sư Điện, chủ tịch HNVTC từ năm 1986, thuộc nhóm Thường Vụ, có mặt năm 1988 trong vụ tranh chấp giữa hai nhóm: Thường Vụ và Đổi Mới, hiện tình nguyện về dạy học tại trường Đại Học Quốc Tế trong Đại Học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh. Việt Nam.
- Lý Thanh Tùng.
- Nguyễn Quát Ti.
- Quách Tinh Văn, có anh ruột là Quách Tinh Cần, đỗ thủ khoa sĩ quan Đà Lạt, khóa 20, ngày 20-11-1965. Quách Tinh Cần sau đó làm sĩ quan tùy viên cho đại tướng Cao Văn Viên. Đây là một hoàn cảnh bi kịch của miền Nam khi gia đình chia hai, mỗi người đứng về một phía. Quách Tinh Văn, Phó Giám đốc Vietimex Inc., Phó Giám đốc Laser Express Inc., Phó Giám đốc Vinamedic Inc. chuyển hàng về Việt Nam.
(T) Cựu Thủ khoa Trường Võ
Bi Quốc gia Việt Nam – Khóa 20, cựu đại úy VNCH Quách Tinh Cần (2010). (P) SV
thân cộng, doanh nhân Quách Tinh Văn (2014). Nguồn: DCVOnline tổng hợp
- Đỗ Đức Viên.
- Phùng Kim Vy, vợ Nguyễn Văn Nhã, sang Canada năm 1975, là giám đốc Saigon Tours, Montréal, Giám đốc Khu du lịch Thiên Phú – Seahorse Resort Phan Thiết, Phó chủ nhiệm Câu lạc bộ Doanh nhân Việt kiều, hiện là Chủ tịch HĐQT The Cliff Resort & Residences (Khu nghỉ dưỡng Dốc Đá) ở Phan Thiết (Bình Thuận), v.v.
Trong
số những người trên, có nhiều cấp độ tham gia: tham gia ít hay nhiều, tích cực
hay không tích cực, tham gia như một cảm tình viên hay vì tò mò.
Có
nhiều người tham gia nhưng vẫn giữ được tinh thần tự trọng, có nhân cách.
Có
người tham gia chỉ vì tiền, vì quyền lợi. Có những người bị lợi dụng. Có những
người là nạn nhân. Có những người bị thất sủng, bị khai trừ. Có những người nay
chỉ có tên mà thực sự họ đã tránh xa, không dính dáng với chuyện làm ăn của
hội. Có những người chỉ có tiếng mà không có miếng.
Nói
chung có một sự phức tạp ràng buộc trong cách thức tham gia vào Hội. Điều thứ
hai, khi hội có liên hệ chặt chẽ với tòa đại sứ cộng sản ở Ottawa thì chỉ những
thành viên nào tỏ ra ‘biết điều’ mới được tin dùng.
Như
trường hợp bác sĩ Lê Hữu Phùng mà chức vụ chính thức là Chủ Tịch Ủy Ban Cố vấn!
The President of UGVC’s Committee of counsellors. Ai cũng thừa hiểu rằng chức
vụ đó chỉ có danh tước mà không có quyền hành gì trong nội bộ tổ chức. Và cũng
chẳng chấm mút ăn được cái giải gì cả.
Một
trường hợp khác, Trần Tuấn Dũng. Đỗ Đức Viên, Nguyễn Xuân Lộc. Cả ba đều làm
cho một hiệu sách nhỏ có tên Librairie Hồ Chí Minh, ở số 72, đường
Prince Arthur, phía Đông, Montreal. Họ đã bị bắt lầm trong sự kiện Khủng hoảng
tháng Mười tại Canada (October Crisis, 1971) vì đã có mặt ở một chỗ đáng lẽ họ
không có mặt, nhà của một nhân vật trong danh sách cảnh sát cần bắt giữ. Họ
không phải là mối quan tâm của chính phủ Canada và đã được phóng thích vài ngày
sau đó.
Có
trường hơp đặc biệt như trường hợp vợ chồng Nguyễn Tấn Phục và Hoàng Thị Vĩnh
Thủy; cả hai đã tình nguyện về Việt Nam năm 1977. Đến năm 1979, biết rõ bộ mặt
thật của chế độ và quyết định trốn được sang Mã Lai và nhờ có hai con có quốc
tịch Canada nên được bốc đi ngay sang Canada.
Từ
đó, họ chọn thái độ quy ẩn. Thái độ này, tôi cho là đáng trách. Đáng lẽ họ nên
cho đồng bào ở đây biết rõ nguyên do nào họ phải liều chết trốn ra khỏi Việt
Nam.
Họ
còn sợ cái gì? Không lẽ bóng ma cộng sản vẫn chập chờn trong giấc ngủ của hai
vợ chồng sau 40 năm? Cộng đồng người Việt ở đây rộng tay đón họ như thể đón đứa
con trở về như một niềm vui, như xóa sạch nợ nần, ân oán!
Nợ
nần ai làm người đó trả. Họ có làm gì đâu?
Nhưng
thực chất những người vừa nêu tên tuổi trên kia họ là ai mới được?
Thưa
đó là những thành phần có ăn học, được các chính phủ thời Đệ Nhất và Đệ Nhị
cộng hòa cho học bổng đi học tại Pháp, tại Mỹ, tại Tân Tây Lan và tại Đức, Thụy
Sĩ và nhất là tại Canada. Trong đó có 40 người đi với học bổng của chương trình
Colombo vào năm 1964.
(Còn
phần Kết)
Comments
Post a Comment