Mời qúy vị đọc bài mới nhất của Thẩm Phán Lữ Giang.
Nói với Hoàng Phủ Ngọc Tường
Lữ Giang
Hôm 26.7.2015, một độc giả có email là
dien.nguyen44@… đã đưa lên diễn đàn hình Hoàng Phủ Ngọc Tường với lời ghi chú
vắn gọn:
“Giờ đây HP Ngọc Tường bị bại
liệt. Y phải ngồi xe lăn, và cõi chết đã gần kề, Hoàng Phủ Ngọc Tường không thể
chối tội y đã giết đồng bào với chính lương tâm của y, y cũng không thể quên
được những hình ảnh bi thảm của cuộc tàn sát ghê rợn, đẫm máu do chính y gây ra
cho đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968. Trong phần đời ngắn còn lại, Hoàng
Phủ Ngọc Tường phải sống những ngày đêm u ám, sợ hãi, y sợ hồn ma, bóng quỉ, y
sợ oan hồn của những kẻ đã bị y thảm sát gần 40 năm trước.”
Ảnh Hoàng Phủ Ngọc Tường – bại liệt –đến
dự đám tang bà mẹ vợ.(Ảnh lấy trên Facebook)
Email vắn gọn này lại bắt chúng ta nhớ đến
những thảm cảnh mà đồng bào ở Đà Nẵng và Huế đã phải chịu trong các cuộc bạo
loạn tại miền Trung trước 1975, nhất là trong Tết Mậu Thân. Để đối phó với công
luận, nhóm người gây ra những tai họa này thường dùng Vọng Ngữ để chạy tội, coi
Vọng Ngữ như một pháp môn của đạo Phật, có thể đưa tới “giải
thoát”! Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng tin như vậy, nhưng chạy trời không khỏi nắng.
BỊ CIA ĐẨY VÀO CON ĐƯỜNG CÙNG
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9.9.1937 tại
Huế, nhưng quê ở Triệu Phong, Quảng Trị. Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
(ban Việt – Hán) năm 1960, về dạy ở trường Quốc Học Huế từ 1960 đến 1966. Khi
CIA phát động phong trào Phật Giáo để lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và đưa quân
vào miền Nam, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những người đã tham gia rất
tích cực.
Sau khi ông Diệm bị giết, một số các nhà
lãnh đạo Phật Giáo tưởng rằng thời vận của Phật Giáo đã đến, nên đã phát động
một phong trào đấu tranh bạo động để cướp chính quyền và hình thành một chính
phủ do Phật giáo lãnh đạo, trong đó Phât giáo là quốc giáo và các tăng sĩ là
quốc sư, gióng như dưới thời Lý Trần. Phong trào này đã lên tới cao điểm vào
năm 1966 khi Phật Giáo đã cướp được chính quyền tại Đà Nẵng và Huế. Nhưng thực
tế không dễ dàng như vậy.
Phong trào Phật Giáo tuy được trang bị bằng lòng
cuồng tín tôn giáo và sự hận thù Thiên Chúa Giáo rất cao, nhưng lại thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo và thiếu kinh
nghiệm… nên đã trúng kế của CIA!
Đọc lại các tài liệu ghi lại các biến loạn
do các phong trào Phật Giáo gây ra lúc đó ở Sài Gòn, Đà Nẵng và Huế (trong đó
có Bạch Thư của Hòa Thượng Tâm Châu), ai cũng thấy kinh hoàng. Đợi khi lòng
cuồng tín tôn giáo lên đến cao độ và đưa tới biến loạn, và khi các đặc công
cộng sản nằm vùng ẩn nấp trong các chùa ở Đà Nẵng như chùa An Long do Thích
Minh Tuấn trụ trì và chùa Phổ Quang của Thích Từ Mẫn.., xuất đầu lộ diện dưới
danh nghĩa “Lực Lượng Thanh Niên Phật Tử Cứu Quốc” và «Đoàn Thanh
niên Phật tử Quyết tử»…, Mỹ mới bật đèn xanh cho hai Tướng Nguyễn Cao Kỳ và
Nguyễn Ngọc Loan dẹp tan.
Ngày 20.5.1966, từ Huế Thượng Tọa Thích Trí
Quang lên tiếng kêu gọi Tổng Thống Johnson can thiệp và đòi Tướng Kỳ phải từ
chức ngay lập tức. “Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng” yêu
cầu Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ra tay, nếu không họ sẽ phá phi trường Đà Nẵng. «Quân
đoàn Cách mạng Vạn Hạnh» đã được thành lập do Thích Minh Chiếu làm Tư lệnh
và đặt Tổng hành dinh tại chùa Phổ Đà ở số 340 đường Phan Châu Trinh Đà Nẵng.
Nơi đây đã trở thành nhà tù giam giữ, tra tấn và thủ tiêu những viên chức chính
quyền, quân đội, công giáo, VNQDĐ… không theo “Cách Mạng”. Trưa 26.5.1966 đoàn
biểu tình đã đốt cơ quan USIS, Phòng Thông tin và Thư viện Hoa Kỳ tại Huế, tiêu
hủy khoảng 5.000 quyển sách. Ngày 1.6.1966, đoàn biểu tình đập phá Tòa Lãnh sự
Mỹ tại Huế. Họ rãi truyền đơn đòi đưa Thích
Trí Quang lên làm quốc trưởng và Trần Quang Thuận làm thủ tướng. Nhưng Tổng Thống Johnson tuyên bố ủng hộ Quân Lực VNCH
và yêu cầu chính phủ và các tổ chức đấu tranh chấm dứt các cuộc xô xát “để
chống Cộng và thực hiện dân chủ.”
Ngày 23.5.1966, khi Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng
Quân ly khai do Ðại Úy Nguyễn Thừa Du chỉ huy, rút ra khỏi Chùa Tỉnh Hội ở Đà
Nẵng và trở về với QLVNCH, phong trào Phật Giáo đấu tranh cướp chính quyền bắt
đầu suy yếu rồi tan rã dần.
Hiện nay, đã có hàng trăn bài và tài liệu
ghi lại các biến cố nói trên, nhưng nhìn chung, chúng ta thấy vụ Đại tá Đàm
Quang Yêu, Tư lệnh Biệt khu Quảng-Đà và Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 51 Bộ binh
tuyên bố ly khai khỏi chính quyền trung ương và cho Ðại Úy Nguyễn Thừa Du dẫn
Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng vào đóng ở Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng để bảo vệ Phật
Giáo, vụ một số đơn vị thuộc Sư Đoàm 1 và Sư Đoàn 2 tuyên bố ly khai, vụ tướng
Lewis Walt, Tư lệnh TQLC Hoa Kỳ tại Vùng I, ngăn chận không cho không quân VNCH
oanh kích quân ly khai ở Đà Nẵng… đều là những hành động có tính toán.
Khi tình hình đã chín muồi, Thiếu tướng
Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch UBHPTƯ, lên các đài truyền thanh và truyền hình tuyên
bố rằng cộng sản đã xâm nhập vào các phong trào tranh đấu ở miền Trung và cho
biết sẽ dùng võ lực để tái lập an ninh tại Đà Nẵng. Ngày 14.5.1966, các tàu vận
tải của Hoa Kỳ đã đưa 40 xe tăng và thiết vận xa đến Đà Nẵng. Ngày 15.5.1966,
chính phủ gởi 5 tiểu đoàn Nhảy dù đến Quân đoàn I tăng cường cho Thủy Quân Lục
Chiến. Chỉ trong một giờ, quân Nhảy dù đã tái chiếm Đài phát thanh Đà Nẵng...
Tất cả những biến cố nói trên đều do Tướng
Lewis Walt, Tư lệnh TQLC Hoa Kỳ tại Vùng I đạo diễn. Mục tiêu của kịch bản này
là biến phong trào đấu tranh Phật Giáo thành một phong trào bạo loạn và khủng
bố, rồi viện lý do đó dẹp tan mà không bị dư luận quốc nội và quốc tế phản đối.
Nói cách khác, CIA đã bày mưu để đẩy
Phật Giáo Ấn Quang vào con đường cùng.
Bị thất bại một cách thê thảm, Giáo Hội Phật
Giáo Ấn Quang đã công khai đi theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Các cán bộ
nồng cốt của nhóm này đã bỏ thành phố đi vào chiến khu theo
Việt Cộng, chẳng hạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường (dạy học), Hoàng
Phủ Ngọc Phan (SV Y Khoa), Nguyễn Đắc Xuân (SV Đại Học Sư Phạm), Trần
Quang Long (SV Đại Học Sư Phạm), Lê Minh Trường (Sinh Viên Mỹ Thuật),
Huỳnh Sơn Trà (SV Y Khoa), Nguyễn Văn Sơ (SV Đại Học Sư Phạm), Ngô
Yên Thi (SV Văn Khoa), Trần Bá Chữ (SV Đại Học Sư Phạm), Nguyễn
Thị Đoan Trinh (sinh viên Dược)… v.v. Đa số còn lại bị cơ quan an ninh VNCH
bắt giữ, một số ẩn trốn trong quần chúng.
TỪ TỘI ÁC NÀY ĐẾN TỘI ÁC KHÁC
Báo chí và sách vở đã viết quá nhiều về
những tội ác mà đảng CSVN đã gây ra trong biến cố Tết Mậu Thân năm 1968, đặc
biệt là các thành phần thuộc Giáo Hội Ấn Quang đã bỏ vào chiến khu năm 1966 nay
trở lại để sát hại đồng bào, trong đó có 4 tên được chú ý nhất là Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân và Nguyễn Thị Đoan
Trinh.
Có lẽ cuốn sách tóm lược đầy đủ hơn cả về vụ
thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế là cuốn “The Vietcong Massacre at Hue”
(Cuộc thảm sát của Việt Cộng ở Huế) của bà Bác Sĩ Elje Vannema xuất bản năm
1976. Bà là người có mặt ở Huế khi biến cố xẩy ra. Lời tường thuật của các nhân
chứng khác, Việt Nam cũng như ngoại quốc, cũng đã giúp chúng ta thấy rõ hơn sự
dã man của cuộc thàm sát này.
Theo tài liệu, khi Cộng quân tấn công vào
Huế, có đem các đại đội đặc công, võ tranh tuyên truyền và các toán an ninh.
Hoạt động về an ninh được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Minh, Phụ
tá Bộ Tư Lệnh Quân Khu kiêm Trưởng Ban An Ninh Quân Khu. Trụ
sở chính của Ban An Ninh được đặt tại Chùa Từ Đàm. Chỉ huy các toán an ninh là Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn
Đình Bảy (tự là Bảy Khiêm) thuộc Khu Ủy Trị Thiên. Tồng Hoàng Nguyên đã
giao cho Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường phụ trách khu Gia
Hội.
Nguyễn Đắc Xuân thành lập “Đoàn Quân Nhân Sư Đoàn 1 ly khai” và “Đoàn Nghĩa
Binh Cảnh Sát” để dụ các quân nhân và cảnh sát VNCH ra trình diện, rồi
sau đó đưa đi thủ tiêu.
Trường Trung Học Gia Hội của Dòng Mai Khôi
(Phú Xuân) được dùng làm nơi giam giữ và xét xử các thành phần bị coi là Việt
gian hay phản động. Theo bà Bác sĩ Elje Vannema, các
phiên tòa ở đây đều do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa.
Bà Elje Vannema là người Hà Lan, sinh năm
1932 và tốt nghiệp y khoa tại trường McGill University Medical School ở Canada
năm 1962. Bà đã dến hoạt động y tế ở Huế từ 1965 đến 1968, có mặt tại Huế trong
biến cố Tết Mậu Thân, nên đã tường thuật khá đầy đủ trong cuốn “The Viet
Cong Massacre at Hue” dày 212 trang, xuất bản năm 1976. Bà đã ghi lại
các việc làm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân như sau:
"Dân chúng hiện diện khá đông tại
các phiên tòa ở Tu viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa
án ở Tu viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và
là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây.
Cầm
đầu ở Gia Hội là Nguyễn Ðắc Xuân,
trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong
thành do hai sinh viên Nguyễn Ðọc và Nguyễn Thị Ðoan (Trinh) điều khiển. Các
phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui
chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất
cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc…”
Bà Elje Vannema cho biết đã kiểm kê được qua
22 mồ tập thể với số nạn nhân bị Cộng quân giết là 2.326 người. Riêng tại
trường Gia Hội, nơi Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân điều hành, có 203
người bị giết. Người đi bắt và bắn chết là tên Linh (Diệu Linh), người Quảng
Ngãi làm nghề thầy bói, khoác áo Việt Nam Quốc Dân Đảng Thừa Thiên.
THẦN KHẨU BUỘC XÁC PHÀM!
Từ 1963 đến nay, những người thuộc giáo phái
Phật Giáo Ấn Quang, dù theo Việt Cộng hay chống Cộng, dù ở trong hay ngoài
nước, cũng thường coi VỌNG NGỮ như con đường giải thoát. Hoàng Phủ Ngọc Tường
cũng thế.
Nguyễn Đắc Xuân khẳng định rằng trong suốt
thời gian xảy ra biến cố Mậu Thân, Hoàng Phủ Ngọc Tường ở chiến khu tại địa đạo
Khe Trái trong vùng núi phía tây huyện Hương Trà để làm công việc của Mặt Trận
Giải Phóng, cho nên chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường tham gia tàn sát là điều bịa
đặt. Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường nói:
"Không hiểu sao đến giờ vẫn có những
kẻ xấu miệng cứ tìm cách buộc chặt tôi vào "vụ" Mậu Thân Huế. Đúng
Mậu Thân đã trở thành một bi kịch đời tôi! Tôi đành xem họ như những kẻ vu
khống bẩn thỉu, thế thôi!"
(Báo Công An Nhân Dân online: Sự thật về 3
nhân vật bị kẻ thù gọi là "đồ tể khát máu")
Nhưng tục ngữ Việt Nam có câu “Thần khẩu
buộc xác phàm”, chính lời tuyên bố của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường sau đó
lại trở thành bằng chứng buộc tội anh ta. Trong cuộc phỏng vấn của đài PBS năm
1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói:
“Nói riêng về những người bị
giết thì trong số đó tất nhiên có một số là do du kích cách mạng. Khi
chúng tôi vào nhà để gọi họ ra thì họ bắn trả đến cùng; họ bắn đến độ có những
chiến sĩ của chúng tôi đã bị thương; khi
đó chúng tôi phải bắn trả khiến những người đó bị chết tại chỗ.
Trong trường hợp đó có một viên Phó tỉnh trưởng của Huế...”
Trong cuộc phỏng vấn của phóng viên Burchett
và đoàn làm phim Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình tại Huế năm 1982, Hoàng Phủ Ngọc
Tường xác nhận chính mình là chứng nhân của biến cố Tết Mậu Thân tại Huế 1968,
nhưng cho rằng thủ phạm vụ tàn sát đó là Mỹ - Ngụy chứ không phải Đảng CSVN!
Xin mời quý vị lắng nghe:
Hỏi:
Ông có thể mô tả biến cố nổi dậy ở Huế, đặc biệt liên quan đến vụ thảm sát. Ở
đây. Xin đề nghị ông trả lời cho biết những gì xảy ra bấy giờ ở Huế, có những
vụ trả thù, đàn áp?
Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Ông muốn nói đến vụ thảm sát Mậu Thân ở Huế? Đó là
một chiến công vĩ đại của nhân dân Huế. Nhưng nhân dân Huế đã phải trả một giá
đắt cho chiến thắng này. Đó là là một sự trả thù chưa từng thấy của Mỹ và
ngụy sau đó. Vì thế nhân dân Huế đã phải trả giá đắt nhất so với các thành
phố khác của chúng tôi. Cũng chỉ vì ở đây người Mỹ đã chịu sự tổn thất nặng nề
về sinh mạng, về vật chất và chính trị tại Huế…
“Bởi vì tội ác do Mỹ tạo ra được toàn
thể thế giới bên ngoài quan tâm, chúng chuyển tất cả tội ác của chúng và đổ lỗi
cho những người làm cách mạng chống lại nhân dân của họ. Tôi ám chỉ việc
chúng đã dùng vụ thảm sát như một bửu bối đặc biệt để bôi nhọ cách mạng Việt
Nam trong cuộc hòa đàm Paris.
“Đây là điều tôi muốn nêu rõ vì tôi biết như là một chứng nhân.”
Những lời tuyên bố này cho thấy Hoàng Phủ
Ngọc Tường có mặt tại Huế trong Tết Mậu Thân, nhưng cũng như các thành phần đấu
tranh khác của Giáo Hội Ấn Quang, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đổ tội cho Mỹ - Ngụy
để “giải thoát” cho mình. Nhưng Kinh Pháp Cú có dạy: “Khi nghiệp ác chưa thành thục, kẻ ác cho là vui, đến khi
nghiệp ác thành thục rồi kẻ ác mới hay là ác.”
Có lẽ lúc này “nghiệp ác thành thục rồi”, nên người ta đã tìm thấy trong thơ của Hoàng Phủ Ngọc
Tường những câu:
Những chiều Bến Ngự giăng mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang
(Địa chỉ buồn)
Hay:
Nợ người một khối u sầu
Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi
(Về chơi với cỏ).
Không phải đợi đến "ngày sau luân
hồi" đâu, chính trong kiếp này, Hoàng Phủ Ngọc Tường, những kẻ tôn thờ
Vọng Ngữ trong Giáo Hội Ấn Quang và chính Giáo Hội này cũng đã phải trả rồi.
Ngày 30.7.2015
Lữ Giang
Comments
Post a Comment