Suy Tôn
Ngô Tổng Thống
- Ngọc Bích &Thanh Nam,
hợp ca - hoà âm QuốcToản
Nhân
Dân Cách Mạng Việt Nam
- Hùng Lân, hợp
ca - hoà âm QuốcToản
=========================================
CHÂN DUNG TỔNG THỐNG
VNCH NGÔ ĐÌNH DIỆM
Thông qua việc giải trình một số
ý tưởng của Tổng thống
Người viết: Đa Nguyên
Tôi hy vọng
mọi người sẽ nhận ra được phần nào tâm tư, tình
cảm, hay nói nôm na là con người thật của Tổng
thống NGÔ ĐÌNH DIỆM sau khi đọc những mẩu chuyện
nầy. Tuy nhiên, dựng lại những chuyện nầy chỉ có
thể trung thực về nội dung. Về hình thức, không
thể đạt được 100/100, vì nhiều lý do như thời
gian câu chuyện xảy ra đã quá lâu, trí nhớ có
hạn v.v...
Vài người
đồng liêu (từng là sĩ quan tuỳ viên của TT Ngô
đình Diệm) bảo tôi: "Anh không viết thì ai viết,
vì anh là người trong thời cuộc đó".
Vậy tôi sẽ viết ra những gì còn nhớ được:
Chuyện # 1 -
CUỘC TIẾP KIẾN BA NHÀ TRÍ THỨC SÀI GÒN.
Hôm đó, bác sĩ Trần kim Tuyến, giám đốc Sở
Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng thống, đưa 3 nhà
trí thức chống chính quyền vào văn phòng làm
việc (bấy giờ quen gọi là cabinet) của Tổng
thống. Một trong 3 người đó là giáo sư Trần bích
Lan.
Theo y phục họ mặc, không ai nghĩ họ đang bị
chính quyền câu lưu. Họ không bị còng tay, cũng
không có cảnh sát áp giải. Cùng đi với họ lại là
bác sĩ Tuyến. Họ giao tiếp với nhau và với bác
sĩ Tuyến rất tự nhiên, như là bạn bè.
Khi mọi người đã an vị, bác sĩ Tuyến vào gặp
riêng Tổng thống chừng vài phút. Tổng thống rời
khỏi phòng đi đến cabinet và cuộc nói chuyện bắt
đầu. Tháp tùng với Tổng Thống, tôi đã ghi nhận
được cuộc nói chuyện rất ấn tượng đó. Vì lý do
thời gian đã quá lâu và vì tuổi tác, nay đã quá
già, nên chỉ nhớ các điểm chính như sau:
Tổng thống nói trước:
- Chào quý vị.
- Chào Tổng thống. (Một trong ba người nói "chào
Cụ").
- Tiếp quý vị trong tình thế nầy, thật là không
phải. Tôi muốn nói ngay là chính quyền mong muốn
quý vị nói riêng, giới trí thức nói chung là "vốn
quý của đất nước", hãy ra tay giúp nước vào lúc
nầy hơn lúc nào hết. Có gì xin hãy nói cho tôi
biết.
- Dạ, chúng tôi hiểu. Chúng tôi đã không chọn
Miền Bắc.
Gs. Trần bích Lan nói tới đó thì tự nhiên khựng
lại. Tổng thống liền nói tiếp:
- Ông giáo sư cứ nói thẳng ra. Tôi hiểu tình
hình Miền Bắc. Còn Miền Nam chúng ta cũng chỉ
mới bắt đầu nên còn phải làm nhiều việc, vì còn
nhiều cái xấu, cái chưa được.
- Thưa Tổng thống, tại sao Cảnh sát & Công an
đối xử với dân hách dịch độc đoán, có khác gì
cái thời thực dân đã qua. Họ bắt bớ bừa bãi...
điển hình là trường hợp của chúng tôi.
- Tôi hiểu và mong các ông cũng hiểu rằng mình
kế thừa di sản thực dân và phong kiến. Tất cả
đều còn đó; mình phải giải quyết. Tuy nhiên, cần
phải có thời gian và sự tiếp tay của mọi người,
đặc biệt là giới trí thức. Nói rõ hơn, như chính
quý vị đây, chúng tôi đang cần quý vị!
Ba vị khách tỏ ra thông cảm. Họ đã nói chuyện với
Tổng thống rất tự nhiên. Họ nói về thời sự Miền
Bắc. Đôi khi, cả chuyện riêng tư, gia đình. Rồi
họ đã ra về thoải mái cùng với bác sĩ Tuyến.
Điều tôi ghi nhận được là Tổng thống đã nói với
họ rằng "trí thức là vốn quí của đất nước".
Không như chế độ Miền Bắc coi giới trí thức là một
trong bốn đối tượng phải bị triệt hạ qua khẩu
hiệu "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc
tận rễ."
Chuyện # 2 -
CÔNG ĐIỆN #5159
Như mọi
người đều biết, Công điện số 5159 ngày 6-5-1963
là ngòi nổ của biến cố Phật giáo năm 1963.
Nội dung bức công điện nhằm chấn chỉnh thể thức
treo quốc kỳ và giáo kỳ tại các nhà thờ, chùa
chiền, thánh thất... Việc ban hành văn bản này
cũng chỉ là công việc điều hành thông thường của chính
quyền mà thôi.
Thế nhưng, công điện nầy được coi như một hành
vi kỳ thị Phật giáo của Chính quyền Tổng thống
Ngô đình Diệm, dẫu cho nội dung nói tới nhiều
tôn giáo.
- Có nhiều
lý do:
Lý do thứ nhất: Thời điểm ban hành công điện là
không thích hợp, vì rất gần kề ngày Đại lễ Phật
Đản. Nhóm Phật giáo chống chính quyền đã chụp
ngay cơ hội, tuyên truyền rằng "chính quyền Công
giáo Ngô đình Diệm", do kỳ thị Phật giáo, đã cố
ý ban hành công điện nói trên nhắm vào lễ Phật
Đản. Thâm ý là cấm treo cờ Phật giáo trong lễ
Phật Đản.
Lý do thứ
hai: Nghe đâu... (1) dân chúng Thành phố Huế vừa
mới chứng kiến lễ Ngân khánh (hay Kim khánh) của
Đức Tổng Giám mục Ngô đình Thục (anh ruột của
Tổng Thống) tưng bừng rực rỡ với cờ Công giáo
trên một số đường trong thành phố. Vì vậy, phía
Phật giáo đấu tranh khai thác, đưa ra như một
bằng cớ để so sánh và đã gây ra sự bất mãn cao
độ trong quần chúng Phật giáo.
(1) Chi tiết này mong sao có sự xác minh công
tâm; vì có dư luận phản bác, nói rằng không có
lễ này tại Huế vào thời điểm đó.
Lý do thứ ba: Về phía Tổng thống Ngô đình Diệm,
cụ rất coi trọng lá cờ quốc gia; coi trọng đến "quá
mức tưởng tượng" của chúng tôi (các SQTV/TT).
Thế cho nên, khi bị bức xúc do thấy quốc kỳ
không được tôn trọng đúng cách thì đã có phản
ứng, mà không chú ý đến yếu tố thời gian (Thời
điểm sắp Đại lễ Phật Đản).
Do đó, khi biết cuộc đấu tranh của Phật giáo xảy
ra vì Công điện số 5159, chúng tôi đã nhận ra
ngay nguyên do có Công điện đó. Nguyên do đó
phát xuất từ một cuộc kinh lý của Tổng thống
không lâu trước ngày công điện được phát hành.
Đến nay, khi viết bài nầy, thì chuyện xảy ra đã
quá lâu, nhưng người trong cuộc là chính chúng
tôi, nên có thể kể lại như sau:
Thời gian đó, tôi là Sĩ quan tuỳ viên của Tổng
thống và Thiếu tá Huỳnh văn Lạc (sau nầy thăng
cấp Chuẩn tướng và là Tư lệnh Sư đoàn 9 BB VNCH)
bấy giờ là đại đội trưởng Đại đội Cận vệ Phủ
Tổng thống, nguyên cũng là một cựu SQTV/TT. Anh
Lạc hiện cư trú tại San Jose, California-USA .Chuyện
được ông tướng nhắc lại cho tôi rất rành mạch
qua một bức thư (tôi còn lưu giữ). Đoạn nói về
vấn đề liên quan đến bức công điện rất mạch lạc,
như sau:
"Chuyến đi thăm của Cụ, thì cùng với Anh, tôi có
thể rành mạch xác nhận chi tiết. Vì xe của cận
vệ (trên xe có tôi) theo sát xe của Cụ. Khi rời
xưởng dệt Vinatexco do Đài Loan đầu tư độ khoảng
hai ba cây số trên đường trở về dinh, Tổng thống
bất thần bảo dừng xe. Xuống xe, Cụ đi thẳng vào
sân có bóng mát và lá rụng của một ngôi chùa.
Nơi đó, một vị sư đứng tuổi đang quét dọn. Cụ
nhẹ nhàng hỏi chuyện và quan sát cảnh trí ngôi
chùa...
Rời chùa, trước khi bước vào xe, Cụ cho gọi ông
bí thư Trần Sử và bảo về trình lại ông đổng lý
cho phổ biến văn thư chỉ thị phải tôn trọng lá
quốc kỳ và đặt lá quốc kỳ ở vị trí trên hết.
Số là Cụ đã thấy trên cột cờ giữa sân chùa, cùng
một dãy, cờ Phật giáo tuy không còn mới nhưng
sạch màu, không rách nát và ở vị trí trên quốc
kỳ, còn quốc kỳ thì ở bên dưới lại bạc màu và
rách tả tơi...
Rất tiếc, như anh đã nhận xét, văn thư đã phổ
biến quá muộn, cận ngày lễ Phật Đản, gây bức xúc,
hiểu lầm, mồi lửa nổ bùng cho cuộc tranh đấu..."
Thiết tưởng, tướng Huỳnh văn Lạc, niên trưởng
của tôi, nay tuổi 90 mà còn minh mẩn, nhớ hết
các chi tiết như đã kể trên, ...thì tôi không
còn gì để nói thêm.
Chúng tôi chỉ muốn nói ra sự thật để chứng minh
rằng Tổng thống Ngô đình Diệm không hề có ý kỳ
thị Phật giáo khi chỉ thị cho ban hành Công điện
số 5159. Nó xẩy ra vì sự bất cẩn, rất vô ý, một
nhược điểm mà ai cũng có thể vấp phải. Thật đáng
tiếc!
Chuyện
# 3 - NHỮNG NGÀY ĐẦY LẠC QUAN, ĐẦY HY
VỌNG... ĐÃ BỊ BÓP CHẾT TỨC TƯỞI!
Khi cuộc khủng hoảng Phật giáo (1963) vượt ra
khỏi biên giới quốc gia, đến tận Liên Hiệp Quốc,
Tổng thống Ngô đình Diệm được nhà bác học Bửu Hội
từ Pháp về giúp đỡ giải quyết vấn đề. Tổng thống
đã rất trân trọng hành vi cao quý của vị giáo sư
nầy. Được biết, giáo sư Bửu Hội là nhà bác học
Việt nam nổi tiếng thế giới, ông cũng là con nhà
Phật. Ông là người có uy tín lớn; cần thiết
trong tình thế nầy của đất nước và chế độ. Đó là
sự hỗ trợ quý báu và là niềm phấn khởi to lớn
cho Tổng thống. Nhưng niềm vui lớn hơn cho Tổng
thống là khi được biết LHQ muốn gởi một phái
đoàn đến VN (VNCH) để điều tra vụ việc "VNCH vi
phạm nhân quyền, kỳ thị và đàn áp Phật giáo".
Tại sao như vây?
Thông thường thì một người bị tố cáo phạm tội
tất nhiên phải lo sợ bị xét xử, bị ra toà án.
Thế mà ở đây, trái với sự thông thường đó, Tổng
thống Ngô đình Diệm lại rất lạc quan và hy vọng.
- Do bởi Tổng thống tin tưởng ở công lý. Cụ cho
rằng thời cơ đã đến để mọi sự thật được sáng tỏ,
sẽ có công bằng cho mọi phía. Tổng thống rất
hoan nghênh ý LHQ muốn đến điều tra. Tuy nhiên,
vì lý do quốc thể, VNCH là nước có chủ quyền nên
Tổng Thống đã chủ động "mời" LHQ gởi phái đoàn
đến tìm hiểu sự thật. Tổng thống đã không để cho
LHQ chủ động làm chuyện nầy. Rồi, "thật vàng sợ
gì lửa", Tổng thống đã cam kết để cho Phái đoàn
LHQ muốn đi đâu thì đi, muốn tiếp xúc với ai thì
tiếp xúc hoàn toàn tuỳ ý của họ.
Thế rồi, phái đoàn LHQ đã đến và đã tiến hành
cuộc điều tra. Mọi sự đều công khai; mọi sự đều
vô tư khách quan giữa thanh thiên bạch nhật. Có
thể hình dung ra rằng cả thế giới đang theo dõi,
giám sát. Mọi sự đang tiến hành rất tốt và rất
có lợi cho phía chính quyền của Tổng thống Ngô
đình Diệm thì cuộc đảo chánh 01-11-1963 nổ ra,
lật đổ chính quyền, giết chết Tổng thống!
Thế là hết!
Tại sao lại như vậy???
Câu trả lời nằm trong bản công bố của phái bộ
Liên Hiệp Quốc ngày 13-12-1963, rằng, "thực chất
không có vấn đề tôn giáo mà vì lý do chính trị".
Mưu ma chước quỷ thì vô lường vì người ta đã
quyết định rồi, là "The Ngo must go" (Nhà Ngô
phải ra đi!). Đó, như một mệnh lệnh cho nhóm
tay sai thi hành.
Muốn rõ chi tiết, xin đọc bài "LHQ và vụ khủng
hoảng Phật giáo 1963" của Tác giả Nguyễn văn Lục
và bài "Phúc trình LHQ về vấn đề VN, phần 2-
phái bộ LHQ" của Giáo sư Tôn thất Thiện.)
Được biết GS Tôn thất Thiện là một tín đồ Phật
giáo, một nhân vật lớn, có địa vị lớn trong xã
hội thời bấy giờ và cả sau nầy. Ông định cư ở
Canada.
Chuyện # 4 - VỤ
"TỰ THIÊU" CỦA HOÀ THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỨC.
Xin lưu ý: các chi tiết được kể sau đây xảy ra
trong bối cảnh của năm 1963.
Hôm đó
khoảng gần giữa trưa, Đại tá Nguyễn văn Y, tổng
giám đốc Cảnh sát Quốc gia xin trình việc khẩn
cấp. Tổng thống ngừng lại mọi việc đang làm để
nghe. Đại tá Y báo cáo vụ tự thiêu vừa mới xẩy
ra của Hoà thượng Thích quảng Đức tại ngã tư
đường Phan đình Phùng & Lê văn Duyệt. Nghe xong,
Tổng thống hỏi liền mấy câu: Tại sao Cảnh sát
không can thiệp ngay để cứu Thầy Quảng Đức (?);
Họ xuất phát từ đâu và tại sao không biết để
ngăn chận nó từ trước? Xem ra, không phải cá
nhân ông thầy tự làm mà là được tổ chức dàn dựng?
Có người Mỹ trong số các phóng viên ngoại quốc
không? Có chụp được hình ảnh không? v.,
v...
Đại tá Y trả lời sau mỗi câu hỏi đó.
Cuối cùng, Tổng thống đã chỉ thị (đại ý) rằng:
Tình hình nghiêm trọng càng nghiêm trọng hơn. Âm
mưu lật đỗ chính quyền ngày càng rõ nét. Nhưng
không phải nơi Phật giáo. Cái gọi là vụ Phật
giáo là do họ cố ý dựng lên như nay đã rõ. Vậy
phải cảnh giác cao độ. Phải coi chừng; có thể sẽ
có thêm nhiều vụ thế nầy nữa... Cùng với các nổ
lực khác của chính quyền, Cảnh sát phải hết sức
ngăn chặn. Đừng để có thêm những cái chết oan
uổng như thế nữa. Tội nghiệp cho người ta!
Tôi đã ghi nhận mấy lời cuối cùng đó của Tổng
thống. Khó mà quên được!
Ngày nay, đọc qua nhiều tư liệu mới thấy được sự
thật; tuy có lập luận trái ngược, nhưng cũng cho
ta thấy đâu là chân lý.
Quả thật, Tổng thống Ngô đình Diệm đã không nhầm!
Chuyện nầy cũng cho thấy cái tâm của Tông thống
VNCH NGÔ ĐÌNH DIỆM.
Chuyện #
5 -
VỤ ÁN ÔNG NHẤT LINH NGUYỄN TƯỜNG TAM.
Nhà văn và chính khách Nhất Linh Nguyễn tường
Tam dính líu đến cuộc đảo chánh 11-11-1960. Ông
bị "mời" đến cơ quan chức năng hai ngày liền.
Ông đã được thả theo lệnh của Tổng thống Ngô
đình Diệm.
Đến năm 1963, chính quyền lại có trát đòi ông ra
toà.
Theo dư luận, chính quyền muốn dằn mặt giới đối
lập khi (1963) tình hình quá rối ren với nhiều
tin tức có âm mưu đảo chánh, nên đã làm như thế.
Điều tôi biết là, chiều ngày hôm trước, Tổng
thống đã phái ông Võ văn Hải, chánh văn phòng
Tổng thống, đến gặp ông Nguyễn tường Tam hoặc
con của ông, để nhắn cho họ biết rằng: Tổng
thống sẽ không để cho ông phải bị án. Lý do: Ông
là người Quốc gia, chống CS; là chính khách có
danh tiếng, có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Ngoài
ra, ông như là một đồng chí của Tổng thống. Tổng
thống rất vị nể ông. Tuy nhiên, ông đã đáp lại
tấm chân tình của Tổng thống Ngô đình Diệm bằng
cách tự vẫn. Ông để lại bức thư như sau: "Đời
tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử cả...
Bắt bớ, xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc
gia là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất vào tay
Cộng Sản..."
Nhận được tin đó, Tổng thống rất buồn. Tổng
thống chỉ nói, "Ông biết việc ông làm!"
Sau nầy, đọc "Bóng đêm lịch sử, trang 188-191
năm 2008" của cựu đại tá Lê nguyên Phu, viết
rằng: Ông NL NTT đã yêu cầu Đại tá Lê văn Khoa,
Ủy viên Chính phủ, "giúp tôi tránh khỏi đối chất
với bọn đàn em thuộc hạ của tôi". Ý muốn ám chỉ
nhóm Trương bảo Sơn, từng rủa sả ông NL NTT là "Phản
bội anh em, thiếu tư cách lãnh đạo", rằng ông đã
không nhận trách nhiệm khi mà họ chỉ làm theo
lệnh của ông (treo biểu ngữ chống chính quyền...).
Đến đây, xin độc giả hãy tự đánh giá các nhân
vật này. Riêng tôi, tôi nhớ hồi đó ông Lê nguyên
Phu lui tới trình việc lên Tổng thống rất nhiều
lần về vụ nầy. Có lẽ ông đã trình cho Tổng Thống
biết hết mọi sự như đã viết trong phần trên.
Chuyện # 6 -
QUỐC KỲ và CỜ TÔN GIÁO
Đây là chuyện dài. Chữ dài ở đây là muốn nói nó
xẩy ra rất nhiều lần. Tôi ghi nhận được một số.
Ngoài chuyện đã viết ở trên, còn có
các chuyện sau đây:
1. Lần đầu, chuyện quốc kỳ và cờ tôn giáo đã xẩy
ra tại Trung Tâm Nhân Vị, tỉnh Vĩnh Long, như
sau:
Nhân dịp lể khai giảng khoá học, Trung tâm Nhân
vị của Giáo phận Vĩnh Long, do Đức cha Ngô đình
Thục cai quản, đã treo cờ và căng biểu ngữ rất
tưng bừng. Thấy thế, Tổng thống Ngô đình Diệm
lấy làm khó chịu. Cụ đi thẳng đến toà giám mục
để gặp Đức giám mục. Dẫu rất kính trọng người
anh cả nầy, Tổng thống đã phàn nàn rằng tại sao
không thấy treo quốc kỳ mà thấy toàn cờ quốc gia
Vatican (?). Theo Tổng thống, cờ đó cũng không
phải cờ tôn giáo (Công giáo). Mà dẫu cho là vậy
đi nữa thì đây là đất nước Việt Nam, phải treo
quốc kỳ Việt Nam!
2. Một lần khác, trên đường trở vể từ cuộc thị
sát khu phức hợp “Vườn
Phượng Hoàng" vùng Hạnh Thông Tây, Gia định,
Tổng thống ra lệnh cho dừng xe dọc đường. Rồi cụ
chỉ tay bảo tôi mời một người đàn ông đang chống
cuốc nhìn đoàn xe. Qua y phục màu nâu, tôi nhận
ra ông là một vị sư. Sau lưng ông là một ngôi
chùa nhỏ. Tôi đã mời và ông đi ra gặp Tổng thống.
Nhà sư đến trước mặt Tổng Thống, bỏ nón xuống và
nói:
- Chào Tổng thống.
- Chào thầy. Thầy đang làm gì đó?
- Dạ, đang vun gốc mấy cây vạn thọ. Đại lễ Phật
Đản sắp tới rồi.
- Thầy có tính làm chi thêm nữa không?
- Dạ có chứ. Treo đèn, treo cờ. Thay cái cờ đó
cho mới cho đẹp nữa.
- Tốt lắm! ... Thôi, tôi kiếu thầy.
- Chào Tổng thống.
Đại khái là như vậy, nhưng tôi nhận ra, chỉ vì
lá quốc kỳ bạc màu kia khiến xảy ra chuyện nầy.
Tổng thống Ngô đình Diệm là thế đó! Quốc kỳ là
trên hết!
Tôi đã cố gắng dựng lại cho sinh động cuộc đàm
thoại ngắn ngủi đó nhưng cũng chỉ làm được đến
mức đó mà thôi.
3- Cũng chuyện quốc kỳ (hay liên quan đến quốc
kỳ).
Chuyện khó quên đối với tôi là buổi trình diện
trước Tổng thống ngày 08-09-1959. Tổng thống đã
rất hài lòng về buổi lễ thượng quốc kỳ vào ngày
hôm trước (07-09-1959) - ngày Thứ Hai đầu tuần. Trong
buổi lễ long trọng nầy, tôi là tổng chỉ huy.
Cụ nói lời khen ngợi dành cho tôi và các đơn vị
tham dự. Tiếp đến là về lý lịch của tôi và rồi
cụ hỏi:
- Khi chào cờ, có suy nghĩ chi không?
- Dạ bẩm, lễ chào cờ là việc rất quan trọng. Lễ
chào cờ tại đây càng quan trọng hơn, vì Phủ Tổng
thống là cơ quan đầu não của quốc gia, của chế
độ.
Tổng thống nhìn tôi và dường như chưa phải đó là
câu trả lời đúng ý muốn của cụ nên có ý chờ tôi
nói thêm. Thấy vậy, tôi liền trình tiếp:
- Còn lá quốc kỳ là biểu tượng thiêng liêng của
dân tộc, phải được tôn trọng đặc biệt. Với chúng
con, là quân nhân VNCH, chúng con chiến đấu và
phục vụ dưới lá cờ này.
Đến đó, tôi nhận thấy Tổng thống như tươi vui
hẳn lên. Rồi Tổng thống nhìn vào tờ giấy để sẳn
trên bàn, xong lại quay nhìn tôi và hỏi một câu
khiến tôi bất ngờ:
- Có muốn làm sĩ quan tuỳ viên cho Tổng thống
không?
Vì sợ mếch lòng Tổng thống nên tôi đã thưa vâng.
Thế là từ đó, Tổng thống đã cho tôi làm SQTV/TT
cho đến ngày cuối cùng cuộc đời của Cụ. Trên 4
năm (1959-1963).
Sau chuyện đó, tôi tự kiểm điểm bản thân: Tôi
không hề là bà con hay quen biết với Tổng thống,
cũng không có ai thân thiết tiến cử cho mình. Vì
thế, tôi đoan chắc rằng chính Tổng thống đã đích
thân chọn tôi.
Tôi cũng nghĩ, SQTV/TT là người mang súng và kề
cận bên Tổng thống trong tình thế thời bấy giờ
là rất nguy hiểm, nhưng Tổng thống đã chọn tôi;
Tổng thống đã tin và dùng tôi. Tình cảm đó, tôi
ghi nhận suốt đời. Đó cũng chính là động cơ
khiến tôi viết ra bài này.
Chuyện
# 7 - TT NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ CUỘC ĐẢO CHÁNH
ngày 11-11-1960
Cuộc binh
biến đã bắt đầu vào khoảng 5 giờ sáng ngày
11-11-1960.
- Mục tiêu: Phủ Tổng thống (Dinh Độc Lập), Sài
gòn.
- Mục đích: Lật đổ Tổng thống Ngô đình Diệm.
- Lý do: Bất đồng chính kiến.
- Tham gia đảo chánh: Quân sự có chừng 2 đến 3
tiểu đoàn Nhảy Dù và Liên đoàn Biệt động quân
QĐVNCH. Dân sự có một số chính khách có tiếng và
trí thức (học vị cao) Saigon.
- Lãnh đạo: Trung tá Vương văn Đông. Về sau có
Đại tá Nguyễn chánh Thi được đưa ra làm thủ lãnh.
Có dư luận nói ĐT. Thi bị cưỡng bức phải theo
sau khi buộc phải đọc một văn bản về lý do làm
đảo chánh.
- Kết quả cuộc đảo chánh: Thất bại.
Tuy cuộc đảo chánh bị thất bại, tổn thất nhân sự
và vật chất không đáng kể. Nhưng hệ quả về mặt
tinh thần và chính trị mà nó gây ra là rất nghiêm
trọng. Những điều tôi được nghe, được thấy là:
- Uy tín của chính quyền đối với quần chúng bị
sứt mẻ.
- Tổng thống lo ngại rằng cuộc đảo chánh nầy có
thể thành tiền lệ cho một cuộc đảo chánh khác.
- Nó tạo ra sự nghi ngờ trong bang giao với đồng
minh Hoa Kỳ.
Nhưng quan trọng hơn hết là:
- Tổng thống bị tổn thương tinh thần và tình cảm.
Đau buồn nhất là có những nhà trí thức và chính
trị gia đã từng ủng hộ, hợp tác với Tổng thống
mà nay ở trong thành phần chống đối (đối lập).
Tổng thống không tin một Nguyễn chánh Thi phản
bội. Chỉ một ngày sau cuộc đảo chánh, đã có báo
cáo về trường hợp đại tá Thi như sau: Nhóm đảo
chánh, sau khi đâm chết thiếu tá Ngô xuân Soạn
vì từ chối hợp tác, đã kéo đến gặp Đại tá Thi
rồi cưỡng bách Ông. Về trường hợp các vị bên dân
sự, Tổng thống đặc biệt chú trọng đến các ông
Trần văn Hương và Nguyễn tường Tam. Trong nhiều
buổi nói chuyện với ông Ngô đình Nhu, Tổng thống
có ý phiền trách các nhà làm chính trị tại sao
họ lại không biết rằng đất nước chúng ta (VNCH) đang
ở vào thời kỳ khó khăn, đang cần có sự đoàn kết
cao. Vì nay CSBV đã tái đấu tranh võ trang, gia
tăng cường độ cả về quân sự và chính trị. Mặt
khác, do cần có viện trợ mà chúng ta bị áp lực
từ nước cấp viện với những yêu sách khó thoả
thuận vì chạm đến vấn đề chủ quyền quốc gia.
Việc nầy có thể họ không hiểu hết nhưng chính
quyền cũng không thể nói ra hết được.
Đã có một lần, khi đọc danh sách những người bị
tạm giữ, Tổng thống nói lớn: "Thả họ ra!" . Tuy
nhiên, theo lập luận của giới chức năng, không
thể làm khác với pháp luật. Qua việc nầy, tôi
nhận thấy không phải Tổng thống muốn làm gì cũng
được!
Riêng ông Ngô đình Nhu thì cho rằng, họ (các nhà
trí thức và chính khách đối lập đó) không phải
là "người của tình thế ". Ông nói ít nhưng ý
nghĩa thì rất... sâu sắc!
Chuyện # 8 - ĐẠI SỨ HOA KỲ
FREDERIC E. NOLTING.
(Nhiệm kỳ 10-05-1961 đến 15-08-1963)
Trái với các ĐSHK trước và sau nhiệm kỳ nầy, Đại
sứ Frederic E. Nolting là người được ưa chuộng
nhất. Ông là người am hiểu người VN, am hiểu
lịch sử và văn hoá VN. Vậy cho nên, có thể nói
ông là người đồng hành tốt nhất với Tổng thống
Ngô đình Diệm. Ông tiêu biểu cho quan hệ bang
giao giữa hai nước đồng minh HK và VNCH. Đồng
minh thì bình đẳng trong giao tiếp, không ai lệ
thuộc ai; cùng hợp tác để thành đạt một mục tiêu
chung.
Trong nhiệm kỳ của ông, một đề xuất đã được
chuyển đến Tổng thống không phải tại Phủ TT
nhưng là trong một cuộc kinh lý của Tổng thống
mà ông ĐS được mời tham dự. Chuyện xẩy ra như
sau: Tổng thống và ông Đại sứ, một người rất cao
và một người rất thấp, đang đi nhanh về phía
trước, đột nhiên họ đứng hẳn lại. Tổng thống
nhìn ông Đại sứ và nói:"....chuyện đó tôi cần có
thời gian để xem xét."
Nghe đến đó, tôi không hiểu Tổng thống nói
chuyện gì, nhưng nhìn Tổng thống, tôi đoán chắc
là có vấn đề nghiêm trọng. Nhất là câu cuối cùng,
nghe rất rõ: "VN không muốn là nước thuộc địa". Cuộc
kinh lý vẫn tiếp diễn nhưng Tổng thống như chỉ
miễn cưỡng vui vẻ cho đến khi kết thúc.
Về tới dinh, Tổng thống liền gọi ông cố vấn Ngô
đình Nhu. Hai ông đàm đạo rất lâu. Tôi chỉ biết
đến đó vì tôi xuống phiên. Hôm sau, bạn đồng
liêu (SQTV/ TT) thuật lại rằng, hai ông bàn về
chuyện HK muốn sử dụng một số yếu điểm chiến
lược (địa điểm trọng yếu về chiến lược) và đưa
quân đội Mỹ đến giúp VNCH.
Chuyện # 9 -
CUỘC BẦU CỬ TỔNG THỐNG NĂM 1961
Nhiệm kỳ 1961-1966.
Thời gian: 03-04-1961.
Ứng cử: 3 liên danh.
- Liên danh # 1: Ngô đình Diệm & Nguyễn ngọc Thơ;
đương kim tổng thống và phó tổng thống.
- Liên danh # 2: Nguyễn đình Quát, chủ đồn điền
cao su và Nguyễn thành Phương, Giáo hội Cao Đài.
- Liên danh # 3: Hồ nhựt Tân và Nguyễn thế
Truyền, chính khách.
- Công bố kết quả: Ngày 09-04-1961.
- Đắc cử: Liên danh #1 (với số phiếu áp đảo).
Kết quả cuộc bầu cử không có gì ngạc nhiên.
Lý do: Liên danh #1 có nhiều lợi thế: Là những
người đang cầm quyền.
Ông Nguyễn ngọc Thơ là nhân sĩ Miền Nam.
Sự nghiệp chính trị vượt trội của Tổng thống Ngô
đình Diệm.
Điều quan
trọng hơn hết, theo tôi nhận định, là Tổng thống
muốn biết mức độ tín nhiệm đối với nhà lãnh đạo
sau biến cố đảo chánh của năm trước. Kết quả
cuộc đầu phiếu sẽ nói lên điều đó. Và quả thật,
kết quả cuộc đầu phiếu đã đem lại sinh khí rất
tốt lành. Chế độ lại vững vàng.
Ngoài ra, có thể xem đây như một biện pháp cải
tổ nhân sự mà dân chúng mong muốn.
Chuyện # 10 - VIỄN KIẾN TRỞ
THÀNH SỰ THẬT.
Tổng thống tiếp kiến Giáo sư Bửu Hội trong bối
cảnh VNCH gặp nhiều khó khăn về cả hai mặt đối
nội và đối ngoại.
Đối nội là vấn đề Phật giáo (1963). Đối ngoại là
áp lực của Hoa kỳ, nước cấp viện cho VNCH. Theo
Tổng thống, tuy nói là hai nhưng hai cũng chỉ là
một vì cái nầy là yếu tố phụ cho cái kia; cái
nầy được dùng làm cái cớ cho cái kia. Đại ý,
Tổng thống đã tâm sự với ông GS (viết theo ý,
không phải nguyên văn):
- Trong tình thế bây giờ, mình nên nghĩ đến cái
chung giữa chúng ta, ấy là tất cả chúng ta là
người VN, là người quốc gia VN, là người VNCH,
không chấp nhận Cộng Sản. Tất nhiên giữa chúng
ta có nhiều sự khác biệt về tôn giáo, địa phương, giai
tầng xã hội vv... kể cả khác nhau về quan điểm
chính trị.
Thế cho nên, nếu chúng ta không coi cái chung là
trên hết thì rồi đất nước nầy sẽ lâm nguy và rồi
rơi vào tay Cộng Sản. Đến đó thì rồi ai cũng mất
hết!"
Căn cứ trên những điều mắt thấy tai nghe, cùng
với biết bao lời dạy dỗ của Cụ cho tôi lúc nầy
lúc khác (không phải chỉ với 10 câu chuyện nêu
trên mà thôi) trong hơn 4 năm dài làm việc ở bên
cạnh Tổng thống, tôi khẳng định:
Với Tổng thống Ngô Đình Diệm:
- Tổ quốc (Đất Nước VN) là trên hết. Biểu tượng
của tổ quốc là lá quốc kỳ, phải được tôn trọng.
Nó phản ánh cho quan điểm và lập trường chính
trị, cho lòng ái quốc của người công dân.
- Dân tộc (Chủ nghĩa Dân tộc) là yếu tố sống còn
của Việt Nam ta.
Trái ngược với Cộng sản chủ nghĩa; thứ chủ nghĩa
nầy sẽ làm huỷ hoại hết mọi di sản VN do ông
cha để lại... kể cả lịch sử oai hùng của dân tộc
ta.
- Chủ quyền quốc gia thì bất khả nhượng. Mất chủ
quyền đồng nghĩa với mất chính nghĩa trong cuộc
chiến ý thức hệ nầy. Mất chủ quyền thì rồi sẽ bị
lệ thuộc, sẽ còn là con cờ hay tệ hơn, thành
"con cờ thí "của người ta mà thôi.
- Người dân hiểu sai, hiểu lầm không phải chỉ là
lỗi của họ mà thôi, mà là của cả chính quyền -
Triệt diệt chủ nghĩa, chủ tương và chính sách,
chứ không triệt diệt con người. Con người có thể
thay đổi qua "phương sách chiêu hồi".
Với người trí thức đối lập chân chính thì còn
phải nhẹ tay hơn vì họ là vốn quý của quốc gia.
Điển hình là cách xử sự trong trường hợp các ông
Nhất Linh Nguyễn tường Tam và ông Trần văn Hương.
- Tổng thống là quốc trưởng, là người lãnh đạo
toàn dân, là người của toàn dân. Toàn dân thì có
nhiều thành phần, nhiều tôn giáo. Tổng thống
không phải của riêng một tôn giáo nào cả.
- Theo Tổng thống Ngô đình Diệm, tôn giáo là nền
móng của VNCH, là chế độ duy linh; trái với chế
độ CS vô thần ở Miền Bắc VN. Vậy nói Tổng thống
VNCH chống tôn giáo (Phật giáo) là không đúng.
- Chia rẽ vì bất kỳ lý do gì, nhất là tôn giáo,
sẽ là tai hoạ làm cho mất tất cả -kể cả tôn giáo,
nếu nước nầy mất vào tay CS. Tổng thống đã nói
rất rõ trong cuộc tiếp kiến Giáo sư Bửu Hội như
đã được thuật lại ở trên (Chuyện #10).
Tổng hợp tất cả những điều nêu trên có thể cho
ta thấy được chân dung của Tổng Thống VNCH Ngô
đình Diệm.
===========================
MỘT SỐ CHUYỆN RIÊNG TƯ
Thiển nghĩ, những lời dạy bảo hay
la mắng, phiền trách, an ủi động viên, hoặc tâm
sự cũng phản ánh con người thật của một cá nhân.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng vậy.
Nghĩ như vậy, nên tôi viết thêm
phần này, không ngoài mục đích là mong muốn quý
độc giả thấy được chân dung của tổng thống như
chúng tôi đã thấy.
Theo kinh nghiệm bản thân, tôi
sớm nhận thức được rằng, trong giao tiếp xã hội,
con người sống gần gũi với nhau lâu dài mà giữ
được hoà khí là điều khó. Tôi cũng biết, muốn
khắc phục được điều đó thì phải nhẫn (nhẫn nhịn).
Bởi lý do đó, sau khi đã lỡ nói "vâng" (chấp
nhận làm sĩ quan tuỳ viên cho tổng thống), tôi
rất lo ngại. Vì trong quan hệ này, người phải
nhẫn là ai, tôi tất đã biết. Đã trót lỡ nên đành
phải cố gắng, sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn.
Có mấy việc đã xảy ra đúng như dự
kiến đó:
1-Vụ đầu tiên xảy ra chỉ sau hai
tuần lễ trong chức vụ sĩ quan tùy viên tổng
thống của tôi.
Hôm đó, tổng thống đang tiếp hai
vị bộ trưởng. Một vị bộ trưởng thứ ba vừa đến,
nhưng hết ghế ngồi. Tổng thống nhìn tôi và đưa
tay chỉ vào chồng ghế dọc bức tường, bảo tôi lấy
một cái cho ông bộ trưởng ngồi. Tôi đáp "dạ"
nhưng trong lòng rất bất mãn. Thay vì đi lấy ghế,
tôi quay bỏ đi ra ngoài với ý định sẽ kêu một
phục dịch viên (người bồi) vào lấy ghế cho vị bộ
trưởng. Tôi tự chống chế rằng hành động như vậy,
cũng coi như đã thi hành lệnh cấp trên rồi (tức
là không chống lệnh). Lý do: Tôi là sĩ quan. Tôi
có danh dự. Tôi không làm cái việc nhục nhã đó.
Trường Võ Bị Đà Lạt đã đào tạo tôi thành con
người như vậy. Ở đó, chúng tôi có tôn chỉ "TỔ
QUỐC, DANH DỰ, TRÁCH NHIỆM" như đã đươc ghi trên
cái nón mà chúng tôi đội trên đầu của mình.
Vừa ra khỏi phòng, tôi nghe liên
tiếp hai tiếng chuông tổng thống gọi gấp nên tôi
vội trở lại. Tổng thống nhìn tôi, có vẻ hơi giận,
nhưng không nói gì. Tôi cũng thấy vị bộ trưởng
tự đi lấy ghế. Tôi đứng đó chờ lệnh, nhưng thấy
tổng thống nói chuyện tiếp với họ nên tôi đi ra.
Lòng tôi rất lo lắng!
Tôi lo lắng không phải vì sợ mất
việc, nhưng vì nhiều lý do khác, như tổng thống
sẽ có ấn tượng xấu về mình kể từ vụ này, hoặc
nếu vì vụ này mà bị thuyên chuyển khỏi đây thì
sẽ khó yên thân với thiên hạ ở nơi khác, thói
đời là thế.vv... Nhưng trước hết, chính cái uy
của tổng thống cũng đủ khiến cho mình sợ. Thế
rồi trong khi chờ đợi bị gọi vào để bị khiển
trách, tôi đã bày tỏ nỗi âu lo đó với Trung Tá
Cao Văn Viên, tham mưu trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng
Thống (về sau ông lên đến cấp đại tướng).
Sau đó, cái gì phải đến thì rồi
cũng đến. Khi kết thúc buổi làm việc, vào khoảng
1 giờ trưa, tổng thống gọi tôi vào, nhìn tôi với
vẻ mặt hiền từ. Câu đầu tiên là, "Không sao!"
Rồi người ôn tồn dạy cho tôi hiểu rằng, ở đây
mọi người làm việc như người nhà với nhau, được
việc là chính, bất câu hình thức, phải coi các
sĩ quan tùy viên khác làm, để biết cách mà làm,
từ từ rồi sẽ quen việc...
Điều tôi lo ngại đã không xảy ra.
Tổng thống đã không giận tôi. Lời dạy dỗ của
người rất mộc mạc, đơn sơ, đã cho tôi sự bình
tâm tỉnh trí từ phút đầu.
Tưởng đến đó là hết, nhưng không
phải vậy. Tổng thống nói tiếp, đề cập đến những
điều mà tôi đã giải bày với Trung Tá Cao Văn
Viên. Về những điều này, người nói rằng ngày
nay, không phải như xưa kia. Ngày xưa đi lính là
vì sinh kế (vì lương tiền), nay thì khác, gia
nhập quân đội là để bảo vệ đất nước, bảo vệ dân
tộc, bảo vệ độc lập và tự do... là những nhiệm
vụ cao cả. Do đó, người lính ngày nay được tôn
trọng, không như ngày xưa.
Đến lúc đó, tôi phỏng đoán, có
thể Trung Tá Viên đã trình lên tổng thống những
điều tôi nói với ông. Và thế là quá tốt cho tôi
rồi!
Ngừng một lúc, tổng thống nói
tiếp về vấn đề phục vụ, rằng mình làm việc trực
tiếp với một người, nhưng là làm việc cho một
mục đích. Ví dụ, sĩ quan tùy viên làm việc cho
tổng thống là để giúp tổng thống làm việc cho
nước, cho dân. Tổng thống làm việc cho dân thì
trong đó có mình. Như vậy, mục đich cuối cùng là
mỗi người đều phục vụ đất nước theo trình độ và
khả năng của mình. "Hiểu như rứa thì tổng thống
cũng đang làm bồi cho dân đó thôi," người nói.
Nghe đến đó, tôi cảm thấy sợ. Tôi
cũng thấy ra được sự câu chấp nông cạn của mình.
Đồng thời thấy ra được cái tinh thần cao cả của
tổng thống. Người đang ở trước mặt tôi. Người
làm việc cật lực không màng đến giờ giấc. Người
làm việc không ít hơn 12 tiếng đòng hồ mỗi ngày.
Chỉ nội một việc nhỏ nhặt đơn sơ như phải luôn
luôn mặc y phục chỉnh tề, suốt cả ngày và ngày
nào cũng vậy, tôi nghĩ, cũng đã là một cực hình
rồi. Đôi khi tôi phải tự nhắc để đừng quên rằng
tổng thống là quốc trưởng, ngày xưa gọi là vua,
uy quyền trên cả nước. Nhưng tổng thống không có
gì cho riêng tư cho mình hết, không vợ con,
không nhà cửa, không của cải... Nói như vậy vì
chúng tôi biết cả tiền lương của tổng thống cũng
đem cho các cơ quan từ thiện mà chính sĩ quan
tùy viên tổng thống (chúng tôi) trao tận tay cho
các nơi này.
2-Vụ thứ hai xảy ra vào khoảng
năm 1963. Lâu ngày nên khó nhớ rõ ngày tháng,
chỉ nhớ nội dung.
Ngày đó, tổng thống đi kinh lý
vùng cao nguyên Trung Phần. Một phái bộ Nhật, do
Đại Tướng Kubota cầm đầu, cùng đi, nhưng trên
một chiếc máy bay trực thăng khác. Tôi được biết
chuyến công tác này là rất quan trọng. Đây là sự
hợp tác Nhật-Việt trong một công trình có tính
chiến lược. Tôi là sĩ quan tùy viên tháp tùng
tổng thống.
Sau khi đã bay bao vùng (fly
over) cả khu vực gồm nhiều tỉnh như Bình Long,
Phước Long, Bình Thuận...tổng thống trở về dinh
tỉnh trưởng Phước Long (trở về trước) để chuẩn
bị cho buổi họp chung với phái bộ Nhật. Đến luc
đó tôi mới phát hiện ra một thiếu sót lớn làm
tôi lo lắng vô cùng: Tôi quên đem theo bản đồ!
Tôi đang tìm cách giải quyết thì
tổng thống xuất hiện và như thấy sắc mặt khác
thường của tôi, người hỏi: "Có chuyện gì?"
Tôi trình bày sự thật. Nghe xong,
tổng thống nổi giận lôi đình, nhưng như cố kềm
hãm, bảo tôi đi qua một phòng khác. Đến đó, với
hai tay nắm chặt đầu thành ghế, người nhìn tôi
và quát: "Đi đi! Đi về Sài Gòn lấy bản đồ!"
Tôi chưa bao giờ trải qua cảnh
này. Tôi quá sợ, nhưng đột nhiên cảm thấy tỉnh
táo, không còn sợ nữa. Tôi sực nhớ ra rằng ông
tỉnh trưởng Phước Long cũng có một bản đồ như
thế, tôi liền trình cho tổng thống biết. Lạ lùng
thay, người như đã bình thường trở lại ngay cả
trước khi nghe tôi trình. Người nhìn tôi và nói
nhẹ nhàng: "Thôi được!" Nói xong, người trở ra
phòng họp.
Buổi họp được tiến hành sau đó,
như chương trình đã định.
Trưa hôm đó, sau khi cơm nước
xong, tổng thống tản bộ ra một góc đồi. Tôi đi
theo ra đó. Người ngồi xuống một chiếc ghế do
một phục dịch viên kê sẵn. Người nhìn ra xa rồi
hỏi tôi: "Có biết tại sao ông Kubota cứ bay mãi
hơn nửa giờ sau mới về không? Có nhớ vụ người
Nhật xây đập Đa Nhim không? Có nghe nói người
Nhật từng chôn vàng trong vùng cao nguyên này
không?" Trước những câu hỏi đó, tôi chỉ có một
câu trả lời: "Dạ bẩm, vụ Đa Nhim con có nghe
thoáng qua, rằng xây dựng công trình thuỷ điện
đó, họ làm một công việc, mà với hai mục đích:
Vừa để bồi thường chiến tranh vừa để tìm kho
vàng họ chôn dấu trước kia, thời Đệ Nhị Thế
Chiến.
Tổng thống hơi mỉm cười nhưng
không nói gì thêm nữa.
Trên đường trở về Sài Gòn, tôi
cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái vì thấy tổng thống
rất vui vẻ. Tuy nhiên, tôi cũng thắc mắc tại sao
ông cụ có thái độ khoan hoà như vậy, trái ngược
với hồi trưa (?) Phải chăng người có ý muốn ban
cho tôi sự bình tâm sau những sóng gió hồi trưa
(?).
Hai câu chuyện riêng tư nêu trên
phản ánh khá trung thực tâm tư tình cảm, hay nói
cách khác, chính là con người thật, hình ảnh
thật của Tổng Thống Ngô đình Diệm.
ĐA NGUYÊN
Comments
Post a Comment