Trung Cộng sẽ đổ và bài học Latvia cho người Việt Nam
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Mọi
chế độc chà đạp lên quyền con người sớm hay muộn đều phải đổ. Ismail
Enver Pasha của Ottoman, Hitler của Đức Quốc Xã, Lenin, Stalin và các
lãnh đạo CS Liên Xô, Mengistu Haile Mariam của Ethiopia v.v.. đã đổ, các
quốc gia toàn trị còn lại như Trung Cộng, CSVN rồi cũng sẽ phải đổ. Một
người yêu nước, khôn ngoan, thức thời là người biết chọn một chỗ đứng,
một hướng đi về phía dân tộc để tranh đấu và nếu cần để chết vì tương
lai tự do, dân chủ và thịnh vượng cho con cháu mai sau.
*
Ngân
sách quốc phòng của Trung Cộng khác nhau tùy theo nguồn ước lượng. Theo
công bố chính thức của Trung Cộng, ngân sách quốc phòng năm 2014 là
131.5 tỉ đô la nhưng theo Stockholm International Peace Research
Institute năm 2013 Trung Cộng đã dành 188 tỉ đô la cho chi phí quốc
phòng. Trung Cộng có quân đội hiện dịch 2.3 triệu quân với 500 ngàn quân
trừ bị. Trung Cộng có kho vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân và
hiện đại hơn tất cả các quốc gia khác ở Á Châu. Cho dù tối tân và đông
đảo bao nhiêu cũng không thể so với 27 ngàn đầu đạn nguyên tử, các hạm
đội hùng mạnh và 250 sư đoàn bộ binh trang bị tận răng của Liên Xô trước
ngày 25 tháng 12 năm 1991. Nhưng Liên Xô đã đổ, rồi Trung Cộng cũng
phải đổ.
Bao giờ Trung Cộng đổ?
Gordon Chang, nhà phân tích kinh tế chính trị đã làm việc 20 năm tại lục địa Trung Quốc, trong tác phẩm The Coming Collapse of China xuất bản 2001 tiên đoán Trung Cộng sẽ đổ vào năm 2011.
Lý do, theo Chang trong phần hỏi đáp về tác phẩm của ông, đã viết: “Mao
Trạch Đông, người sáng lập ra Trung Cộng, xây dựng một xã hội bất bình
thường và cô lập chính nó từ các quốc gia khác. Hệ thống đó có thể tồn
tại mãi cho đến khi Trung Cộng biệt lập từ thế giới, nhưng những người
kế tục Mao đã tìm cách mở cửa ra thế giới bên ngoài. Khi một quốc gia
trở nên hội nhập nhiều hơn với các quốc gia khác, một lực đẩy áp dụng
cho toàn thế giới – chính trị, kinh tế và xã hội – cũng ảnh hưởng Trung
Cộng. Tại một điểm trong tiến trình này, hệ thống bất bình thường của
Mao sẽ bị bỏ rơi vì về căn bản không thích hợp với vai trò mà Trung Cộng
tìm kiếm trong hệ thống quốc tế. Một thời gian ngắn, chính phủ Trung
Cộng sẽ không còn khả năng để đáp ứng với các thách thức của một xã hội
mở rộng và năng động”.
Trung Cộng không đổ như Gordon Chang đoán.
Thận
trọng hơn Gordon Chang, công ty Strafor, một công ty thông tin tình báo
chiến lược toàn cầu hiện do George Friedman làm Chủ tịch Chấp hành,
trong Dự đoán Thập niên công
bố ngày 21 tháng Giêng, 2010 cho rằng nền kinh tế Trung Cộng sẽ đổ
trong vòng 10 năm tới. Trả lời thay mặt cho Strafor, Peter Zeihan, phó
chủ tịch công ty, giải thích lý do: “Chúng
tôi đã phân tích vấn đề này trước đây về một hệ thống kinh tế Trung
Quốc bất ổn và chúng tôi nghĩ sự bất ổn đó đạt điểm vỡ khi các mâu thuẫn nội tại của Trung Quốc bùng ra và tan nát”.
Bước vào năm thứ năm của thập niên, Trung Cộng vẫn chưa đổ theo ước tính của Strafor.
Tuy
nhiên, dù không xảy ra như Gordon Chang dự đoán hay chưa xảy ra như
Strafor ước tính, cả hai và rất đông các nhà phân tích kinh tế chính
trị, đều có một nhận xét căn bản rất giống nhau rằng Trung Cộng sớm muộn
cũng sẽ đổ vì phải đương đầu với những khó khăn không thể vượt qua.
Những vấn đề của Trung Cộng
Dân số già nua
Dân
số tại các quốc gia tiên tiến có khuynh hướng tăng chậm và điều này có
nghĩa tỉ lệ người cao tuổi ngày tăng cao so với thế hệ vừa sanh. Thế
nhưng, tại Trung Cộng mức độ chênh lệch đó cao nhất trên thế giới. Giai
đoạn hòa bình sau năm 1949 với chính sách kiểm soát dân số còn tương đối
lỏng lẻo là cơ hội cho một số rất đông dân được sinh ra. Lớp người này
sau đó trở thành lực lượng lao động chính trong giai đoạn hội nhập vào
thế giới đầu thập niên 1980, giúp thúc đẩy nền kinh tế và giữ chi phí y
tế an sinh xã hội thấp. Người dân trong giai đoạn này làm nhiều nhưng
tiêu ít. Điều kiện đó đang bị đảo ngược. Hiện nay Trung Cộng là xã hội
tiêu thụ nhưng có ít trẻ con hơn người già.
Theo
ước tính của đề án PewResearch Global Attitues Project, năm 2050 Trung
Cộng sẽ chỉ tăng 25 triệu so với 400 triệu của Ấn Độ. Các phân tích dân
số ước tính Trung Cộng đang trở nên quốc gia không chỉ già nhất thế giới
mà còn già nhanh nhất thế giới. Trong thời gian vài năm nữa, Trung Cộng
sẽ là viện dưỡng lão khổng lồ. Một quốc gia già nua có nghĩa các chi
phí an sinh xã hội, dịch vụ y tế cũng gia tăng một cách tương ứng và là
một gánh nặng không chịu nổi cho đất nước 1.4 tỉ dân. Lực lượng lao động
phần lớn được dùng trong giai đoạn sản xuất dây chuyền, thiếu sáng tạo
kỹ nghệ mang tính tiên tiến và khai phá. Phần lớn hàng hóa, dù tiêu dùng
hay kỹ thuật cao cấp cũng được phát minh, sáng chế từ nước khác.
Tham nhũng
Tham
nhũng xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới nhưng tại các nước do đảng CS
cai trị tham nhũng không chỉ trầm trọng mà còn có tính đảng.
Gọi
là tính đảng bởi vì tình trạng tham nhũng phát sinh ngay trong lòng cơ
chế chính trị, do cơ chế nuôi dưỡng, tràn lan sang các bộ phận của hệ
thống và dần dần làm hư thối toàn xã hội. Từ Giang Trạch Dân đến Hồ Cẩm
Đào đều đưa mục tiêu chống tham nhũng lên hàng đầu nhưng cả hai đều
biết tham nhũng sẽ tồn tại cùng với sự tồn tại của đảng CS. Các chương
trình chống tham nhũng “đầu voi đuôi chuột” được phát động ồn ào và đầu
hàng chỉ sau 18 tháng. Lý do, bịnh ung thư tham nhũng lan quá rộng và
quá sâu đến các bộ phận sinh tử của đất nước, nhất là trong quân đội.
Sự
phân cách giàu nghèo xảy ra tại hầu hết các nước phát triển, trong đó,
một vài phần trăm người dân sở hữu một nguồn lớn của cải xã hội. Tại
Trung Cộng, chỉ một phần trăm trong tổng số trên một tỉ người sở hữu 40
phần trăm của cải. Điều khác giữa Trung Cộng và các quốc gia tư bản là
số tài sản mà một phần trăm nắm giữ tại Trung Cộng là do tham ô, hủ hóa,
là máu xương, mồ hôi nước mắt của người dân làm ra.
Thiếu tính chính danh lãnh đạo đất nước
Theo tác giả Ross Terrill trong tác phẩm The New Chinese Empire tại
Trung Cộng chủ quyền của con người không tồn tại ngay cả trong lý
thuyết chứ đừng nói chi là thực tế. Mọi quyền hạn đều tập trung trong
tay đảng nhưng không ai bầu đảng CS, không ai trao cho đảng quyền lãnh
đạo. Trong thời kỳ mới mở cửa, người dân tập trung xây dựng cuộc sống
sau khi vừa bước ra khỏi thời tem phiếu nên có khuynh hướng chấp nhận
hay không quá quan tâm đến việc ai lãnh đạo mình nhưng thái độ đó đang
thay đổi nhanh chóng.
Tại
Trung Cộng không có một cơ quan, đoàn thể xã hội nào mà không đặt dưới
sự lãnh đạo của đảng CS. Mặc dù quốc gia có nhiều ngàn tờ báo nhưng
không có tờ báo nào đưa vấn đề chính sách ra bàn cãi. Khi mức độ hội
nhập vào thế giới gia tăng sự bất mãn trong quần chúng đối với đảng và
nhà nước CS cũng gia tăng. Theo giáo sư David Shambaugh, đại học George
Washington, mức độ trấn áp hiện nay tại Trung Cộng lên cao nhất kể từ
năm 1989.
Bất ổn xã hội
Theo Gini Index,
tiêu chuẩn đo lường mức độ mất cân xứng trong việc phân phối lợi tức
gia đình, Trung Cộng là một trong số mười phần trăm mất cân xứng nhất
trên thế giới. Hiện nay các sinh viên tốt nghiệp đại học không có công
ăn việc làm tốt như các thế hệ sinh viên trước đây.
Các
thành phần giàu có đang tìm cách chuyển tiền ra nước ngoài để mua tài
sản cố định và tìm cách định cư. Theo thống kê của Shanghai ‘s Hurun
Research Institue thực hiện vào tháng Giêng, 2014, có đến 64 phần trăm
trong số 393 người giàu có được thăm dò đang tính hay sẽ tính di chuyển
ra nước ngoài. Mỗi năm tại Trung Cộng có 200 ngàn cuộc biểu tình trong
các mức độ và hình thức khác nhau, từ những cuộc biểu tình đẫm máu ở Tây
Tạng, Xinjiang cho đến các đình công nhỏ trong các công ty.
Xã
hội bưng bít Trung Cộng không thể thích nghi với thế giới luôn đổi thay
và sinh động. Các chính sách tự diễn biến trong suốt 25 năm qua của các
lãnh đạo Trung Cộng đều có tính cách chiến thuật,
phòng thủ, vá víu từng giai đoạn. Trung Cộng gặp ít nhiều may mắn về
cung ứng hàng hóa rẻ cho thị trường thế giới trong giai đoạn đầu của
toàn cầu hóa nhưng về lâu dài khi mức cung cầu được bão hòa, mức độ phát
triển kinh tế sẽ chậm lại. Các lãnh đạo Trung Cộng biết điều đó nhưng
biết là một chuyện mà vượt qua được hay không là chuyện khác. Đổi mới
quá xa Trung Cộng sẽ trở thành Liên Xô năm 1991 mà không đổi mới cách
mạng cũng sẽ bùng vở từ trong lòng quần chúng.
Ô nhiễm
Đây
là lãnh vực mà Trung Cộng giữ kỷ lục hàng đầu thế giới trong nhiều năm
chưa có đối thủ tranh giành được. Điều kiện an toàn hầm mỏ, Trung Cộng
cũng được vào mức tệ hại nhất thế giới. Nước, không khí, kỹ nghệ bị ô
nhiễm là nguồn của các bịnh ung thư và các bịnh liên quan đến bộ phận hô
hấp. Tuy che đậy, chính phủ Trung Cộng phải thừa nhận 70% sông, hồ bị ô
nhiễm. Năm 2007, World Bank trong một tổng kết đã tố cáo tình trạng ô
nhiễm tại Trung Cộng là lý do cho 760 ngàn trẻ em chết non và các bệnh
hô hấp khác.
Hai tác giả Joseph Kahn và Jim Yardley của New York Times trong
bài điều tra năm 2007 cho rằng tình trạng ô nhiễm đe dọa vai trò lãnh
đạo của đảng CSTQ. Cũng theo bài điều tra này, 500 triệu người dân Trung
Quốc không có nước uống an toàn vệ sinh. Chỉ vỏn vẹn 1 phần trăm dân
chúng thở không khí với mức độ trong lành tương tự như một người dân Âu
Châu thở. Đảng và nhà nước CSTQ công bố hàng loạt các chương trình bảo
vệ môi trường nhưng không đạt kết quả bởi vì người dân không có quyền
góp ý và báo chí không được phép phê bình.
Chủ trương của Mỹ trước viễn ảnh Trung Cộng đổ: một chính sách hai phương cách (dual-track policy)
Vì
có nhiều ẩn số chưa giải đáp nên không ai có thể có một câu trả lời dứt
khoát Trung Cộng sẽ chuyển hóa qua tự do dân chủ trong hòa bình hay sẽ
trở thành một hay nhiều nước tự do sau một cuộc chiến tranh đẫm máu. Để
đáp ứng cả hai tình huống, Mỹ áp dụng một chính sách hai phương cách (dual-track policy) đối với Trung Cộng.
Giáo sư Aaron L. Friedberg, thuộc
đại học Princeton và nguyên Phụ tá An ninh Quốc gia tại văn phòng Phó
Tổng Thống vào năm 2005, giải thích chính sách này gồm hai mặt: vừa hợp
tác xuyên qua ngoại giao, mậu dịch, khoa học kỹ thuật
và văn hóa giáo dục nhưng đồng thời cũng tăng cường quân sự để đáp ứng
với sự gia tăng quân sự của Trung Cộng trong vùng Đông Á qua các hợp tác
quân sự với Úc, Nhật, Nam Hàn và Philippines.
Khả
năng tốt đẹp nhất cho Mỹ và nhân loại là thông qua mậu dịch và hợp tác,
Mỹ sẽ thúc đẩy Trung Cộng từng bước chuyển hóa sang xã hội tự do. Tuy
nhiên, sau mấy chục năm theo đuổi từ Nixon đến Obama, mục đích giải
phóng chính trị trong hòa bình cho Trung Cộng ngày càng xa thêm.
Sự thất bại của chủ trương một chính sách hai phương cách (dual-track policy)
Chủ trương chính sách hai phương cách (dual-track policy) với
Trung Cộng đã chứng tỏ không thành công. Mặc dù không công khai tuyên
bố, mục đích của Trung Cộng là làm bá chủ biển Đông, và điều đó đi ngược
lại quyền lợi tối quan trọng của Mỹ và đông minh tại Á Châu.
Về
mặt đối nội, cải cách chính trị sẽ diễn ra tại Trung Cộng trước mắt
cũng như lâu dài. Kinh nghiệm đổi mới tại Liên Xô trước năm 1991 cho
lãnh đạo CSTQ biết đổi mới quá đà sẽ dẫn đến những phản ứng xã hội ngoài
tầm kiểm soát của đảng.
Về
mặt bang giao quốc tế, Trung Cộng không hành xử với tư cách một cường
quốc có trách nhiệm, cụ thể qua việc Bắc Hàn thử nghiệm hỏa tiễn tầm xa
và việc Iran thí nghiệm nguyên tử. Ngoài ra, trong lúc Mỹ cắt giảm ngân
sách quốc phòng, Trung Cộng lại gia tăng với mục đích nắm phần ưu thế,
ít nhất tại vùng Đông Á Châu. Lãnh đạo Trung Cộng mặc dù mạnh về kinh tế
nhưng luôn sống trong nỗi bất an bị Mỹ bao vây và lật đổ.
Cách mạng bạo động
Lịch
sử Trung Quốc cho thấy rất ít khi một biến cố chính trị diễn ra trong
êm đẹp. Khả năng rất thấp cho một cuộc cách mạng nhung, cách mạng da
cam, hoa lài diễn ra tại Trung Cộng. Cách mạng tại Trung Cộng sẽ là cách
mạng máu. Vũ khí của giới cầm quyền dù có hiện đại bao nhiêu cũng không
thể ngăn chận được sức mạnh của toàn dân khi họ đã quyết tâm đứng dậy.
Một
yếu tố mà lãnh đạo Trung Cộng không dự đoán được là sự phẩn uất bùng nổ
của 1.4 tỉ dân. “Năm nọc độc” như bộ máy tuyên truyền Trung Cộng gọi
gồm Đài Loan, Tây Tạng ly khai, thiểu số Uighurs, Falun Gong, các nhà
tranh đấu dân chủ, trong đó bốn “nọc độc” nằm ngay trong lục địa và sẽ
trở thành lực lượng quyết định số phận của đảng CSTQ.
Mặc
dù phong trào CS trên phạm vi thế giới không còn tồn tại, sự cách ngăn
về ý thức hệ giữa Mỹ và Trung Cộng quá lớn để đặt qua một bên bởi vì ý
thức hệ ảnh hưởng đến sự tin tưởng giữa hai chính phủ. Điều rõ ràng rằng
nếu Trung Cộng là một quốc gia dân chủ, sự xung đột quyền lợi sẽ không
trầm trọng như xung đột giữa Mỹ dân chủ tự do và Trung Quốc độc tài CS.
Khi cách mạng bùng nổ, Mỹ và Tây Phương, vị lợi ích kinh tế chính trị,
sẽ ủng hộ các lực lượng dân chủ.
Phản ứng của lãnh đạo Trung Cộng trước thời điểm đổ
Sinh
mạng của chế độ CSTQ gắn liền với phát triển kinh tế. Từ 1980 đến 2011
nền kinh tế Trung Cộng tăng trưởng trung bình 10 phần trăm mỗi năm. Mức
phát triển đó không bao giờ trở lại. Nhà phân tích Bob David của tờ The Wall Street Journalnhận
định trong mười năm tới kinh tế Trung Cộng chỉ phát triển từ 3.9 phần
trăm. Một số nhà phân tích khác bi quan hơn khi cho rằng kinh tế Trung
Cộng chỉ tăng 1.6 đến 1.7 phần trăm. Mức phát triển đó là một mức chậm
tại các nước kỹ nghệ nhưng là một tai họa nếu xảy ra tại Trung Cộng.
Điều
gì sẽ xảy ra? Trung Cộng theo lý thuyết buộc sẽ giảm cường độ các xung
đột và tranh chấp với các nước láng giềng để tập trung giải quyết các
vấn đề nội bộ. Tuy nhiên, theo Andy Morimoto phân tích trong Can China Fall Peacefully? đăng trong The National Interest ngày 19 tháng 11, 2014, lúc đó Trung Cộng sẽ phát động chiến tranh để hợp thức hóa vai trò lãnh đạo của đảng CS.
Bằng
chứng, trong thập niên 1950, Trung Cộng thay vì tập trung tái thiết
kinh tế sau cuộc chiến tranh dài, đã phát động chiến tranh Triều Tiên để
củng cố vai trò của đảng. “Sự xúi dục của nước ngoài” thường là bình
phong để thanh trừng nội bộ đảng. Edward Wong, sử gia về Trung Quốc,
trên New York Times ngày 11 tháng 11, 2014 trong bình luận In New China, ‘Hostile’ West Is Still Derided,
Tập Cận Bình trong khi trải thảm đỏ chào đón TT Mỹ Barack Obama, cùng
lúc đã ca ngợi blogger Zhou Xiaoping như có “tinh thần tích cực” vì
blogger này đã viết bài chống Mỹ.
Cũng
theo Andy Morimoto, làm việc tại Hội Đồng Chicago Về Các Vấn Đề Thế
Giới, “viễn ảnh hòa bình tại Á Châu không nhiều hứa hẹn” và ông đề nghị
chính phủ Mỹ thay vì dùng hai phương cách nên tập trung vào việc tăng
cường quân sự tại Á Châu bởi vì tiên đoán hợp lý nhất vẫn là chiến tranh
sẽ bùng nổ trong tương lai.
Lối thoát của Việt Nam
Để
giới hạn hay giảm nhẹ mức ảnh hưởng của chiến tranh, chọn lựa duy nhất
của Việt Nam là phải thoát ra khỏi quỹ đạo Trung Cộng trước khi Trung
Cộng đổ. Không có cánh cửa nào khác hơn là dân chủ. Tuy nhiên lãnh đạo
CS Việt Nam không có khả năng đưa đất nước ra khỏi quỹ đạo Trung Cộng
bằng con đường dân chủ.
Stalin,
trong buổi họp với Mao và Hồ Chí Minh tại Moscow giữa tháng Giêng 1950,
đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay Trung Cộng. Từ đó, CSVN hoàn toàn
lệ thuộc vào Trung Cộng không
chỉ phương tiện chiến tranh, kinh tế, quốc phòng, hệ ý thức, cơ sở lý
luận mà cả cách nói, cách ăn, cách mặc. Đọc các tài liệu quốc tế trong
thời kỳ chống Pháp để thấy Mao gần như đơn phương quyết định mọi hoạt
động quân sự của Việt Minh kể cả việc chọn ngày, chọn tháng cần phải
chiếm cho được Điện Biên Phủ. Máu xương của bao thanh niên Việt Nam đổ
xuống trong chiến tranh chống Pháp trong hàng ngũ Việt Minh có thể phát
xuất từ lòng yêu nước chân thành nhưng đã bị CSVN và CS quốc tế lợi dụng
từng nắm xương, từng giọt máu.
Và
hôm nay, Trung Cộng là mảnh ván duy nhất còn lại để lãnh đạo CSVN bám
vào. Dù thỉnh thoảng vẫn giả giọng hát bài ca yêu nước, thương dân, lãnh
đạo CS biết không có mảnh ván Trung Cộng, chế độ CSVN sẽ chìm. Chọn lựa
duy nhất cho một Việt Nam dân chủ vẫn thuộc về các thành phần Việt Nam yêu nước và không Cộng Sản.
Bài học Latvia độc lập dân chủ trước khi Liên Xô đổ
Latvia
là quốc gia nhỏ, hiện theo thể chế Cộng Hòa vùng Baltic, thủ đô Riga,
có dân số thống kê năm 2010 là 2 triệu người, có chung biên giới với
Estonia, Lithuania, Belarus và Nga. Latvia độc lập năm 1918, nhưng bị
Liên Xô chiếm năm 1940, bị Đức Quốc Xã chiếm năm 1941, bị Liên Xô chiếm
lần nữa năm 1944 và sau đó trở thành nước CS trong hệ thống Liên Xô mãi
cho đến khi chính thức độc lập năm 1991. Trước khủng hoảng kinh tế thế
giới 2008, Latvia là quốc gia có mức phát triển kinh tế nhanh nhất Châu
Âu. GPD trên đầu người năm 2013 của Latvia là 15,375 đô la. Hiện nay,
Latvia hội viên của NATO, Liên Hiệp Châu Âu (EU), WTO, UN, IMF và nhiều
tổ chức quốc tế khác.
Bằng việc chấp nhận Tuyên Bố về Tái Lập Nền Độc Lập của Cộng Hòa Latvia (The Declaration on Restoration of Independence of the Republic of Latvia), Latvia chính thức thoát ra khỏi quỹ đạo Liên Xô ngày 4 tháng 5 năm 1990, hơn một năm rưỡi trước khi Liên Xô đổ.
Lãnh
đạo của nền cộng hòa Latvia khẳng định họ không phải là một nước cộng
hòa tân lập mà kế tục chế độ cộng hòa được thành lập từ 1918. Mặc dù đại
đa số thành viên bỏ phiếu hay chấp nhận bản tuyên bố chưa sinh ra trong
giai đoạn lịch sử 71 năm trước đó, họ biết rằng lịch sử Latvia là một
giòng sông, có lúc êm đềm, có khi gềnh thác nhưng liên tục chảy. Giọt
nước Latvia của thời điểm 1990 đã bắt đầu từ thượng nguồn Latvia năm
1918 đầy hy sinh gian khổ qua tay Hitler và Stalin, hai lãnh tụ độc tài
tàn ác nhất trong lịch sử loài người.
Mặc
dù hiện nay Latvia có nhiều đảng, tổ chức chính trị nhưng trong thời
điểm 1990, các lãnh đạo phong trào dân chủ Latvia theo đuổi các mục tiêu
hết sức cụ thể và sáng suốt:
(1).
Tập trung mọi thành phần dân tộc dưới một mặt trận duy nhất là Phong
Trào Dân Tộc Latvia (Latvian People’s Front) nhằm theo đuổi chỉ một mục
tiêu là loại bỏ chế độ CS tại Latvia và thoát khỏi quỹ đạo Moscow.
(2). Kế tục nền Cộng Hòa đã ra đời năm 1918 thay vì thành lập quốc gia mới.
(3).
Dứt khoát đứng về phía Tây Phương dân chủ ngay từ ngày đầu tuyên bố độc
lập để sau đó được trở thành hội viên của Liên Hiệp Âu Châu (European
Union) và thành viên của NATO.
(4). Vận dụng nhưng không bị gạt gẫm trước mọi cải tổ kinh tế chính trị của Mikhail Gorbachev.
(5).
Từ chối đề nghị của Boris Yeltsin tham gia vào Khối Thịnh Vượng chung
cùng với 11 quốc gia cựu Liên Xô trong hội nghị tại Kazakhstan để rồi
khối này bị cuốn vào vòng kiểm soát của Nga cho đến hôm nay.
Trong số 138 đại biểu bỏ phiếu chấp thuận
bản Tuyên Bố về Tái Lập Nền Độc Lập của Cộng Hòa Latvia buổi sáng ngày 3
tháng 5 năm 1990 không phải đều có một quá khứ giống nhau nhưng cùng
chia sẻ một ước vọng tương lai tươi đẹp cho dân tộc họ. Dân số Latvia
chỉ vỏn vẹn 2 triệu người nhưng đã thắng Liên Xô hùng mạnh gấp ngàn lần
hơn bởi vì không có sức mạnh nào mạnh hơn sức mạnh của đoàn kết dân tộc.
Mọi
chế độ chà đạp lên quyền con người sớm hay muộn đều phải đổ. Ismail
Enver Pasha của Ottoman, Hitler của Đức Quốc Xã, Lenin, Stalin và các
lãnh đạo CS Liên Xô, Mengistu Haile Mariam của Ethiopia v.v.. đã đổ, các
quốc gia toàn trị còn lại như Trung Cộng, CSVN rồi cũng sẽ phải đổ. Một
người yêu nước, khôn ngoan, thức thời là người biết chọn một chỗ đứng,
một hướng đi về phía dân tộc để tranh đấu và nếu cần để chết vì tương
lai tự do, dân chủ và thịnh vượng cho con cháu mai sau.
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Mọi
chế độc chà đạp lên quyền con người sớm hay muộn đều phải đổ. Ismail
Enver Pasha của Ottoman, Hitler của Đức Quốc Xã, Lenin, Stalin và các
lãnh đạo CS Liên Xô, Mengistu Haile Mariam của Ethiopia v.v.. đã đổ, các
quốc gia toàn trị còn lại như Trung Cộng, CSVN rồi cũng sẽ phải đổ. Một
người yêu nước, khôn ngoan, thức thời là người biết chọn một chỗ đứng,
một hướng đi về phía dân tộc để tranh đấu và nếu cần để chết vì tương
lai tự do, dân chủ và thịnh vượng cho con cháu mai sau.
*
Ngân
sách quốc phòng của Trung Cộng khác nhau tùy theo nguồn ước lượng. Theo
công bố chính thức của Trung Cộng, ngân sách quốc phòng năm 2014 là
131.5 tỉ đô la nhưng theo Stockholm International Peace Research
Institute năm 2013 Trung Cộng đã dành 188 tỉ đô la cho chi phí quốc
phòng. Trung Cộng có quân đội hiện dịch 2.3 triệu quân với 500 ngàn quân
trừ bị. Trung Cộng có kho vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân và
hiện đại hơn tất cả các quốc gia khác ở Á Châu. Cho dù tối tân và đông
đảo bao nhiêu cũng không thể so với 27 ngàn đầu đạn nguyên tử, các hạm
đội hùng mạnh và 250 sư đoàn bộ binh trang bị tận răng của Liên Xô trước
ngày 25 tháng 12 năm 1991. Nhưng Liên Xô đã đổ, rồi Trung Cộng cũng
phải đổ.
Bao giờ Trung Cộng đổ?
Gordon Chang, nhà phân tích kinh tế chính trị đã làm việc 20 năm tại lục địa Trung Quốc, trong tác phẩm The Coming Collapse of China xuất bản 2001 tiên đoán Trung Cộng sẽ đổ vào năm 2011.
Lý do, theo Chang trong phần hỏi đáp về tác phẩm của ông, đã viết: “Mao
Trạch Đông, người sáng lập ra Trung Cộng, xây dựng một xã hội bất bình
thường và cô lập chính nó từ các quốc gia khác. Hệ thống đó có thể tồn
tại mãi cho đến khi Trung Cộng biệt lập từ thế giới, nhưng những người
kế tục Mao đã tìm cách mở cửa ra thế giới bên ngoài. Khi một quốc gia
trở nên hội nhập nhiều hơn với các quốc gia khác, một lực đẩy áp dụng
cho toàn thế giới – chính trị, kinh tế và xã hội – cũng ảnh hưởng Trung
Cộng. Tại một điểm trong tiến trình này, hệ thống bất bình thường của
Mao sẽ bị bỏ rơi vì về căn bản không thích hợp với vai trò mà Trung Cộng
tìm kiếm trong hệ thống quốc tế. Một thời gian ngắn, chính phủ Trung
Cộng sẽ không còn khả năng để đáp ứng với các thách thức của một xã hội
mở rộng và năng động”.
Trung Cộng không đổ như Gordon Chang đoán.
Thận
trọng hơn Gordon Chang, công ty Strafor, một công ty thông tin tình báo
chiến lược toàn cầu hiện do George Friedman làm Chủ tịch Chấp hành,
trong Dự đoán Thập niên công
bố ngày 21 tháng Giêng, 2010 cho rằng nền kinh tế Trung Cộng sẽ đổ
trong vòng 10 năm tới. Trả lời thay mặt cho Strafor, Peter Zeihan, phó
chủ tịch công ty, giải thích lý do: “Chúng
tôi đã phân tích vấn đề này trước đây về một hệ thống kinh tế Trung
Quốc bất ổn và chúng tôi nghĩ sự bất ổn đó đạt điểm vỡ khi các mâu thuẫn nội tại của Trung Quốc bùng ra và tan nát”.
Bước vào năm thứ năm của thập niên, Trung Cộng vẫn chưa đổ theo ước tính của Strafor.
Tuy
nhiên, dù không xảy ra như Gordon Chang dự đoán hay chưa xảy ra như
Strafor ước tính, cả hai và rất đông các nhà phân tích kinh tế chính
trị, đều có một nhận xét căn bản rất giống nhau rằng Trung Cộng sớm muộn
cũng sẽ đổ vì phải đương đầu với những khó khăn không thể vượt qua.
Những vấn đề của Trung Cộng
Dân số già nua
Dân
số tại các quốc gia tiên tiến có khuynh hướng tăng chậm và điều này có
nghĩa tỉ lệ người cao tuổi ngày tăng cao so với thế hệ vừa sanh. Thế
nhưng, tại Trung Cộng mức độ chênh lệch đó cao nhất trên thế giới. Giai
đoạn hòa bình sau năm 1949 với chính sách kiểm soát dân số còn tương đối
lỏng lẻo là cơ hội cho một số rất đông dân được sinh ra. Lớp người này
sau đó trở thành lực lượng lao động chính trong giai đoạn hội nhập vào
thế giới đầu thập niên 1980, giúp thúc đẩy nền kinh tế và giữ chi phí y
tế an sinh xã hội thấp. Người dân trong giai đoạn này làm nhiều nhưng
tiêu ít. Điều kiện đó đang bị đảo ngược. Hiện nay Trung Cộng là xã hội
tiêu thụ nhưng có ít trẻ con hơn người già.
Theo
ước tính của đề án PewResearch Global Attitues Project, năm 2050 Trung
Cộng sẽ chỉ tăng 25 triệu so với 400 triệu của Ấn Độ. Các phân tích dân
số ước tính Trung Cộng đang trở nên quốc gia không chỉ già nhất thế giới
mà còn già nhanh nhất thế giới. Trong thời gian vài năm nữa, Trung Cộng
sẽ là viện dưỡng lão khổng lồ. Một quốc gia già nua có nghĩa các chi
phí an sinh xã hội, dịch vụ y tế cũng gia tăng một cách tương ứng và là
một gánh nặng không chịu nổi cho đất nước 1.4 tỉ dân. Lực lượng lao động
phần lớn được dùng trong giai đoạn sản xuất dây chuyền, thiếu sáng tạo
kỹ nghệ mang tính tiên tiến và khai phá. Phần lớn hàng hóa, dù tiêu dùng
hay kỹ thuật cao cấp cũng được phát minh, sáng chế từ nước khác.
Tham nhũng
Tham
nhũng xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới nhưng tại các nước do đảng CS
cai trị tham nhũng không chỉ trầm trọng mà còn có tính đảng.
Gọi
là tính đảng bởi vì tình trạng tham nhũng phát sinh ngay trong lòng cơ
chế chính trị, do cơ chế nuôi dưỡng, tràn lan sang các bộ phận của hệ
thống và dần dần làm hư thối toàn xã hội. Từ Giang Trạch Dân đến Hồ Cẩm
Đào đều đưa mục tiêu chống tham nhũng lên hàng đầu nhưng cả hai đều
biết tham nhũng sẽ tồn tại cùng với sự tồn tại của đảng CS. Các chương
trình chống tham nhũng “đầu voi đuôi chuột” được phát động ồn ào và đầu
hàng chỉ sau 18 tháng. Lý do, bịnh ung thư tham nhũng lan quá rộng và
quá sâu đến các bộ phận sinh tử của đất nước, nhất là trong quân đội.
Sự
phân cách giàu nghèo xảy ra tại hầu hết các nước phát triển, trong đó,
một vài phần trăm người dân sở hữu một nguồn lớn của cải xã hội. Tại
Trung Cộng, chỉ một phần trăm trong tổng số trên một tỉ người sở hữu 40
phần trăm của cải. Điều khác giữa Trung Cộng và các quốc gia tư bản là
số tài sản mà một phần trăm nắm giữ tại Trung Cộng là do tham ô, hủ hóa,
là máu xương, mồ hôi nước mắt của người dân làm ra.
Thiếu tính chính danh lãnh đạo đất nước
Theo tác giả Ross Terrill trong tác phẩm The New Chinese Empire tại
Trung Cộng chủ quyền của con người không tồn tại ngay cả trong lý
thuyết chứ đừng nói chi là thực tế. Mọi quyền hạn đều tập trung trong
tay đảng nhưng không ai bầu đảng CS, không ai trao cho đảng quyền lãnh
đạo. Trong thời kỳ mới mở cửa, người dân tập trung xây dựng cuộc sống
sau khi vừa bước ra khỏi thời tem phiếu nên có khuynh hướng chấp nhận
hay không quá quan tâm đến việc ai lãnh đạo mình nhưng thái độ đó đang
thay đổi nhanh chóng.
Tại
Trung Cộng không có một cơ quan, đoàn thể xã hội nào mà không đặt dưới
sự lãnh đạo của đảng CS. Mặc dù quốc gia có nhiều ngàn tờ báo nhưng
không có tờ báo nào đưa vấn đề chính sách ra bàn cãi. Khi mức độ hội
nhập vào thế giới gia tăng sự bất mãn trong quần chúng đối với đảng và
nhà nước CS cũng gia tăng. Theo giáo sư David Shambaugh, đại học George
Washington, mức độ trấn áp hiện nay tại Trung Cộng lên cao nhất kể từ
năm 1989.
Bất ổn xã hội
Theo Gini Index,
tiêu chuẩn đo lường mức độ mất cân xứng trong việc phân phối lợi tức
gia đình, Trung Cộng là một trong số mười phần trăm mất cân xứng nhất
trên thế giới. Hiện nay các sinh viên tốt nghiệp đại học không có công
ăn việc làm tốt như các thế hệ sinh viên trước đây.
Các
thành phần giàu có đang tìm cách chuyển tiền ra nước ngoài để mua tài
sản cố định và tìm cách định cư. Theo thống kê của Shanghai ‘s Hurun
Research Institue thực hiện vào tháng Giêng, 2014, có đến 64 phần trăm
trong số 393 người giàu có được thăm dò đang tính hay sẽ tính di chuyển
ra nước ngoài. Mỗi năm tại Trung Cộng có 200 ngàn cuộc biểu tình trong
các mức độ và hình thức khác nhau, từ những cuộc biểu tình đẫm máu ở Tây
Tạng, Xinjiang cho đến các đình công nhỏ trong các công ty.
Xã
hội bưng bít Trung Cộng không thể thích nghi với thế giới luôn đổi thay
và sinh động. Các chính sách tự diễn biến trong suốt 25 năm qua của các
lãnh đạo Trung Cộng đều có tính cách chiến thuật,
phòng thủ, vá víu từng giai đoạn. Trung Cộng gặp ít nhiều may mắn về
cung ứng hàng hóa rẻ cho thị trường thế giới trong giai đoạn đầu của
toàn cầu hóa nhưng về lâu dài khi mức cung cầu được bão hòa, mức độ phát
triển kinh tế sẽ chậm lại. Các lãnh đạo Trung Cộng biết điều đó nhưng
biết là một chuyện mà vượt qua được hay không là chuyện khác. Đổi mới
quá xa Trung Cộng sẽ trở thành Liên Xô năm 1991 mà không đổi mới cách
mạng cũng sẽ bùng vở từ trong lòng quần chúng.
Ô nhiễm
Đây
là lãnh vực mà Trung Cộng giữ kỷ lục hàng đầu thế giới trong nhiều năm
chưa có đối thủ tranh giành được. Điều kiện an toàn hầm mỏ, Trung Cộng
cũng được vào mức tệ hại nhất thế giới. Nước, không khí, kỹ nghệ bị ô
nhiễm là nguồn của các bịnh ung thư và các bịnh liên quan đến bộ phận hô
hấp. Tuy che đậy, chính phủ Trung Cộng phải thừa nhận 70% sông, hồ bị ô
nhiễm. Năm 2007, World Bank trong một tổng kết đã tố cáo tình trạng ô
nhiễm tại Trung Cộng là lý do cho 760 ngàn trẻ em chết non và các bệnh
hô hấp khác.
Hai tác giả Joseph Kahn và Jim Yardley của New York Times trong
bài điều tra năm 2007 cho rằng tình trạng ô nhiễm đe dọa vai trò lãnh
đạo của đảng CSTQ. Cũng theo bài điều tra này, 500 triệu người dân Trung
Quốc không có nước uống an toàn vệ sinh. Chỉ vỏn vẹn 1 phần trăm dân
chúng thở không khí với mức độ trong lành tương tự như một người dân Âu
Châu thở. Đảng và nhà nước CSTQ công bố hàng loạt các chương trình bảo
vệ môi trường nhưng không đạt kết quả bởi vì người dân không có quyền
góp ý và báo chí không được phép phê bình.
Chủ trương của Mỹ trước viễn ảnh Trung Cộng đổ: một chính sách hai phương cách (dual-track policy)
Vì
có nhiều ẩn số chưa giải đáp nên không ai có thể có một câu trả lời dứt
khoát Trung Cộng sẽ chuyển hóa qua tự do dân chủ trong hòa bình hay sẽ
trở thành một hay nhiều nước tự do sau một cuộc chiến tranh đẫm máu. Để
đáp ứng cả hai tình huống, Mỹ áp dụng một chính sách hai phương cách (dual-track policy) đối với Trung Cộng.
Giáo sư Aaron L. Friedberg, thuộc
đại học Princeton và nguyên Phụ tá An ninh Quốc gia tại văn phòng Phó
Tổng Thống vào năm 2005, giải thích chính sách này gồm hai mặt: vừa hợp
tác xuyên qua ngoại giao, mậu dịch, khoa học kỹ thuật
và văn hóa giáo dục nhưng đồng thời cũng tăng cường quân sự để đáp ứng
với sự gia tăng quân sự của Trung Cộng trong vùng Đông Á qua các hợp tác
quân sự với Úc, Nhật, Nam Hàn và Philippines.
Khả
năng tốt đẹp nhất cho Mỹ và nhân loại là thông qua mậu dịch và hợp tác,
Mỹ sẽ thúc đẩy Trung Cộng từng bước chuyển hóa sang xã hội tự do. Tuy
nhiên, sau mấy chục năm theo đuổi từ Nixon đến Obama, mục đích giải
phóng chính trị trong hòa bình cho Trung Cộng ngày càng xa thêm.
Sự thất bại của chủ trương một chính sách hai phương cách (dual-track policy)
Chủ trương chính sách hai phương cách (dual-track policy) với
Trung Cộng đã chứng tỏ không thành công. Mặc dù không công khai tuyên
bố, mục đích của Trung Cộng là làm bá chủ biển Đông, và điều đó đi ngược
lại quyền lợi tối quan trọng của Mỹ và đông minh tại Á Châu.
Về
mặt đối nội, cải cách chính trị sẽ diễn ra tại Trung Cộng trước mắt
cũng như lâu dài. Kinh nghiệm đổi mới tại Liên Xô trước năm 1991 cho
lãnh đạo CSTQ biết đổi mới quá đà sẽ dẫn đến những phản ứng xã hội ngoài
tầm kiểm soát của đảng.
Về
mặt bang giao quốc tế, Trung Cộng không hành xử với tư cách một cường
quốc có trách nhiệm, cụ thể qua việc Bắc Hàn thử nghiệm hỏa tiễn tầm xa
và việc Iran thí nghiệm nguyên tử. Ngoài ra, trong lúc Mỹ cắt giảm ngân
sách quốc phòng, Trung Cộng lại gia tăng với mục đích nắm phần ưu thế,
ít nhất tại vùng Đông Á Châu. Lãnh đạo Trung Cộng mặc dù mạnh về kinh tế
nhưng luôn sống trong nỗi bất an bị Mỹ bao vây và lật đổ.
Cách mạng bạo động
Lịch
sử Trung Quốc cho thấy rất ít khi một biến cố chính trị diễn ra trong
êm đẹp. Khả năng rất thấp cho một cuộc cách mạng nhung, cách mạng da
cam, hoa lài diễn ra tại Trung Cộng. Cách mạng tại Trung Cộng sẽ là cách
mạng máu. Vũ khí của giới cầm quyền dù có hiện đại bao nhiêu cũng không
thể ngăn chận được sức mạnh của toàn dân khi họ đã quyết tâm đứng dậy.
Một
yếu tố mà lãnh đạo Trung Cộng không dự đoán được là sự phẩn uất bùng nổ
của 1.4 tỉ dân. “Năm nọc độc” như bộ máy tuyên truyền Trung Cộng gọi
gồm Đài Loan, Tây Tạng ly khai, thiểu số Uighurs, Falun Gong, các nhà
tranh đấu dân chủ, trong đó bốn “nọc độc” nằm ngay trong lục địa và sẽ
trở thành lực lượng quyết định số phận của đảng CSTQ.
Mặc
dù phong trào CS trên phạm vi thế giới không còn tồn tại, sự cách ngăn
về ý thức hệ giữa Mỹ và Trung Cộng quá lớn để đặt qua một bên bởi vì ý
thức hệ ảnh hưởng đến sự tin tưởng giữa hai chính phủ. Điều rõ ràng rằng
nếu Trung Cộng là một quốc gia dân chủ, sự xung đột quyền lợi sẽ không
trầm trọng như xung đột giữa Mỹ dân chủ tự do và Trung Quốc độc tài CS.
Khi cách mạng bùng nổ, Mỹ và Tây Phương, vị lợi ích kinh tế chính trị,
sẽ ủng hộ các lực lượng dân chủ.
Phản ứng của lãnh đạo Trung Cộng trước thời điểm đổ
Sinh
mạng của chế độ CSTQ gắn liền với phát triển kinh tế. Từ 1980 đến 2011
nền kinh tế Trung Cộng tăng trưởng trung bình 10 phần trăm mỗi năm. Mức
phát triển đó không bao giờ trở lại. Nhà phân tích Bob David của tờ The Wall Street Journalnhận
định trong mười năm tới kinh tế Trung Cộng chỉ phát triển từ 3.9 phần
trăm. Một số nhà phân tích khác bi quan hơn khi cho rằng kinh tế Trung
Cộng chỉ tăng 1.6 đến 1.7 phần trăm. Mức phát triển đó là một mức chậm
tại các nước kỹ nghệ nhưng là một tai họa nếu xảy ra tại Trung Cộng.
Điều
gì sẽ xảy ra? Trung Cộng theo lý thuyết buộc sẽ giảm cường độ các xung
đột và tranh chấp với các nước láng giềng để tập trung giải quyết các
vấn đề nội bộ. Tuy nhiên, theo Andy Morimoto phân tích trong Can China Fall Peacefully? đăng trong The National Interest ngày 19 tháng 11, 2014, lúc đó Trung Cộng sẽ phát động chiến tranh để hợp thức hóa vai trò lãnh đạo của đảng CS.
Bằng
chứng, trong thập niên 1950, Trung Cộng thay vì tập trung tái thiết
kinh tế sau cuộc chiến tranh dài, đã phát động chiến tranh Triều Tiên để
củng cố vai trò của đảng. “Sự xúi dục của nước ngoài” thường là bình
phong để thanh trừng nội bộ đảng. Edward Wong, sử gia về Trung Quốc,
trên New York Times ngày 11 tháng 11, 2014 trong bình luận In New China, ‘Hostile’ West Is Still Derided,
Tập Cận Bình trong khi trải thảm đỏ chào đón TT Mỹ Barack Obama, cùng
lúc đã ca ngợi blogger Zhou Xiaoping như có “tinh thần tích cực” vì
blogger này đã viết bài chống Mỹ.
Cũng
theo Andy Morimoto, làm việc tại Hội Đồng Chicago Về Các Vấn Đề Thế
Giới, “viễn ảnh hòa bình tại Á Châu không nhiều hứa hẹn” và ông đề nghị
chính phủ Mỹ thay vì dùng hai phương cách nên tập trung vào việc tăng
cường quân sự tại Á Châu bởi vì tiên đoán hợp lý nhất vẫn là chiến tranh
sẽ bùng nổ trong tương lai.
Lối thoát của Việt Nam
Để
giới hạn hay giảm nhẹ mức ảnh hưởng của chiến tranh, chọn lựa duy nhất
của Việt Nam là phải thoát ra khỏi quỹ đạo Trung Cộng trước khi Trung
Cộng đổ. Không có cánh cửa nào khác hơn là dân chủ. Tuy nhiên lãnh đạo
CS Việt Nam không có khả năng đưa đất nước ra khỏi quỹ đạo Trung Cộng
bằng con đường dân chủ.
Stalin,
trong buổi họp với Mao và Hồ Chí Minh tại Moscow giữa tháng Giêng 1950,
đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay Trung Cộng. Từ đó, CSVN hoàn toàn
lệ thuộc vào Trung Cộng không
chỉ phương tiện chiến tranh, kinh tế, quốc phòng, hệ ý thức, cơ sở lý
luận mà cả cách nói, cách ăn, cách mặc. Đọc các tài liệu quốc tế trong
thời kỳ chống Pháp để thấy Mao gần như đơn phương quyết định mọi hoạt
động quân sự của Việt Minh kể cả việc chọn ngày, chọn tháng cần phải
chiếm cho được Điện Biên Phủ. Máu xương của bao thanh niên Việt Nam đổ
xuống trong chiến tranh chống Pháp trong hàng ngũ Việt Minh có thể phát
xuất từ lòng yêu nước chân thành nhưng đã bị CSVN và CS quốc tế lợi dụng
từng nắm xương, từng giọt máu.
Và
hôm nay, Trung Cộng là mảnh ván duy nhất còn lại để lãnh đạo CSVN bám
vào. Dù thỉnh thoảng vẫn giả giọng hát bài ca yêu nước, thương dân, lãnh
đạo CS biết không có mảnh ván Trung Cộng, chế độ CSVN sẽ chìm. Chọn lựa
duy nhất cho một Việt Nam dân chủ vẫn thuộc về các thành phần Việt Nam yêu nước và không Cộng Sản.
Bài học Latvia độc lập dân chủ trước khi Liên Xô đổ
Latvia
là quốc gia nhỏ, hiện theo thể chế Cộng Hòa vùng Baltic, thủ đô Riga,
có dân số thống kê năm 2010 là 2 triệu người, có chung biên giới với
Estonia, Lithuania, Belarus và Nga. Latvia độc lập năm 1918, nhưng bị
Liên Xô chiếm năm 1940, bị Đức Quốc Xã chiếm năm 1941, bị Liên Xô chiếm
lần nữa năm 1944 và sau đó trở thành nước CS trong hệ thống Liên Xô mãi
cho đến khi chính thức độc lập năm 1991. Trước khủng hoảng kinh tế thế
giới 2008, Latvia là quốc gia có mức phát triển kinh tế nhanh nhất Châu
Âu. GPD trên đầu người năm 2013 của Latvia là 15,375 đô la. Hiện nay,
Latvia hội viên của NATO, Liên Hiệp Châu Âu (EU), WTO, UN, IMF và nhiều
tổ chức quốc tế khác.
Bằng việc chấp nhận Tuyên Bố về Tái Lập Nền Độc Lập của Cộng Hòa Latvia (The Declaration on Restoration of Independence of the Republic of Latvia), Latvia chính thức thoát ra khỏi quỹ đạo Liên Xô ngày 4 tháng 5 năm 1990, hơn một năm rưỡi trước khi Liên Xô đổ.
Lãnh
đạo của nền cộng hòa Latvia khẳng định họ không phải là một nước cộng
hòa tân lập mà kế tục chế độ cộng hòa được thành lập từ 1918. Mặc dù đại
đa số thành viên bỏ phiếu hay chấp nhận bản tuyên bố chưa sinh ra trong
giai đoạn lịch sử 71 năm trước đó, họ biết rằng lịch sử Latvia là một
giòng sông, có lúc êm đềm, có khi gềnh thác nhưng liên tục chảy. Giọt
nước Latvia của thời điểm 1990 đã bắt đầu từ thượng nguồn Latvia năm
1918 đầy hy sinh gian khổ qua tay Hitler và Stalin, hai lãnh tụ độc tài
tàn ác nhất trong lịch sử loài người.
Mặc
dù hiện nay Latvia có nhiều đảng, tổ chức chính trị nhưng trong thời
điểm 1990, các lãnh đạo phong trào dân chủ Latvia theo đuổi các mục tiêu
hết sức cụ thể và sáng suốt:
(1).
Tập trung mọi thành phần dân tộc dưới một mặt trận duy nhất là Phong
Trào Dân Tộc Latvia (Latvian People’s Front) nhằm theo đuổi chỉ một mục
tiêu là loại bỏ chế độ CS tại Latvia và thoát khỏi quỹ đạo Moscow.
(2). Kế tục nền Cộng Hòa đã ra đời năm 1918 thay vì thành lập quốc gia mới.
(3).
Dứt khoát đứng về phía Tây Phương dân chủ ngay từ ngày đầu tuyên bố độc
lập để sau đó được trở thành hội viên của Liên Hiệp Âu Châu (European
Union) và thành viên của NATO.
(4). Vận dụng nhưng không bị gạt gẫm trước mọi cải tổ kinh tế chính trị của Mikhail Gorbachev.
(5).
Từ chối đề nghị của Boris Yeltsin tham gia vào Khối Thịnh Vượng chung
cùng với 11 quốc gia cựu Liên Xô trong hội nghị tại Kazakhstan để rồi
khối này bị cuốn vào vòng kiểm soát của Nga cho đến hôm nay.
Trong số 138 đại biểu bỏ phiếu chấp thuận
bản Tuyên Bố về Tái Lập Nền Độc Lập của Cộng Hòa Latvia buổi sáng ngày 3
tháng 5 năm 1990 không phải đều có một quá khứ giống nhau nhưng cùng
chia sẻ một ước vọng tương lai tươi đẹp cho dân tộc họ. Dân số Latvia
chỉ vỏn vẹn 2 triệu người nhưng đã thắng Liên Xô hùng mạnh gấp ngàn lần
hơn bởi vì không có sức mạnh nào mạnh hơn sức mạnh của đoàn kết dân tộc.
Mọi
chế độ chà đạp lên quyền con người sớm hay muộn đều phải đổ. Ismail
Enver Pasha của Ottoman, Hitler của Đức Quốc Xã, Lenin, Stalin và các
lãnh đạo CS Liên Xô, Mengistu Haile Mariam của Ethiopia v.v.. đã đổ, các
quốc gia toàn trị còn lại như Trung Cộng, CSVN rồi cũng sẽ phải đổ. Một
người yêu nước, khôn ngoan, thức thời là người biết chọn một chỗ đứng,
một hướng đi về phía dân tộc để tranh đấu và nếu cần để chết vì tương
lai tự do, dân chủ và thịnh vượng cho con cháu mai sau.
Comments
Post a Comment