Oil.
Chris Giles, Financial Times
Nguyễn Trường Sơn, CTV Phía Trước chuyển ngữ
Nguyễn Trường Sơn, CTV Phía Trước chuyển ngữ
Bỗng một ngày, thế giới chìm ngập trong
dầu. Sản xuất tăng vọt nhưng vẫn không vượt qua được lượng cầu về dầu
trên toàn thế giới, đã dẫn đến việc lượng dầu dự trữ tăng vọt còn giá
dầu thì giảm mạnh. Giá dầu rớt 40% xuống còn mức trên dưới 60 USD một
thùng kể từ tháng 6 đến nay là cú sốc lớn nhất đối với nền kinh tế toàn
cầu trong năm 2014. Những sự kiện tương tự trong quá khứ vẽ nên một bức
tranh về những hậu quả có thể vừa sâu sắc vừa kéo dài. Thông thường, các
nhà kinh tế sẽ cộp dấu “tích cực” lên danh sách các sự kiện này nhưng
thực tế, các mối nghi ngờ đang nổi cộm rõ ràng hơn bao giờ hết.
Quy mô của cú sốc giá dầu hiện tại khó
có thể lớn hơn nữa. Trong khi thị trường tài chính và dư luận bị cuốn
vào những căng thẳng địa chính trị gia tăng và các diễn biến mới nhất
trong các chính sách của ngân hàng trung ương ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản,
thì các nguồn lực lớn hơn trong thị trường dầu mỏ lại hoàn toàn bị lờ
đi. Vào cuối tháng 10 năm nay, “mối quan tâm chủ yếu” của Quỹ Tiền tệ
Quốc tế lại là nguy cơ xảy ra đợt tăng giá dầu đột biến do những căng
thẳng địa chính trị. Thay vào đó, cầu tăng yếu hơn song song với sản
xuất tăng đã buộc các nhà cung cấp phải cạnh tranh lẫn nhau để tìm kiếm
các khách hàng tiềm năng.
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế IEA, bất
chấp thời tiết mùa đông ở Bắc bán cầu, trữ lượng dầu mỏ của các quốc
gia nhiều dầu đã tăng lên mức cao nhất trong vòng 2 năm vừa qua,. Giá
dầu thô West Texas Intermediate đã giảm từ hơn 100 USD một thùng vào
tháng 6 xuống còn ít hơn 60 USD một thùng, với giá dầu Brent của châu Âu
cũng xảy ra tình trạng tương tự. Việc giá tăng nhẹ ngày hôm qua cũng
không thể làm mờ đi sự thật về quỹ đạo ngày càng đi xuống của giá cả.
Thay vì những căng thẳng địa chính trị ở
Ukraine và Iraq gây ra sự thiếu hụt dầu mỏ và giá dầu tăng vọt, như dự
kiến trong kịch bản của IMF, nguyên nhân đều đi từ kinh tế dẫn đến chính
trị. Sự giảm giá dầu hiện đang có nguy cơ đẩy đời sống nhân dân và tài
chính công của Nga tới điểm cực hạn, và hình ảnh nước Nga hiện lên là
một quốc gia mất giá và hiếu chiến với vũ khí hạt nhân vào đầu năm 2015.
Tại Trung Đông, các quỹ tài trợ cho các cuộc xung đột luẩn quẩn ở Iraq
và Syria đối mặt với những áp lực lớn hơn, hứa hẹn sẽ gây căng thẳng cho
tất cả các bên liên quan. Khi đó, Mỹ ít có khả năng muốn đóng vai “cảnh
sát toàn cầu” vào lúc này, vì nước này có thể đáp ứng gần 90 % nhu cầu
năng lượng từ các nguồn trong nước, từ lần tăng 70 % gần đây nhất vào
năm 2005.
Ảnh hưởng rộng khắp của việc sụt giảm
giá dầu lên nền kinh tế toàn cầu vốn đã rất “nổi tiếng”. Ảnh hưởng này
sẽ đóng vai trò như một yếu tố kích thích quốc tế, tuy nhiên sẽ tái phân
phối dầu một cách mạnh mẽ từ các nước sản xuất dầu tới tay người tiêu
dùng. Mức giá mới càng duy trì được lâu, những ảnh hưởng tới cơ cấu các
ngành công nghiệp trên thế giới sẽ càng sâu sắc.
Tuy nhiên lần này, các nhà kinh tế đang
tích cực tranh luận về việc: có phải thế giới đã thay đổi và các yếu tố
có tính chuyển động khác – chẳng hạn như mức độ lạm phát giảm và đồng đô
la mạnh – sẽ gây nghẽn guồng máy vận hành của các mối quan hệ kinh tế
thông thường.
Nhưng khi giá dầu sụt giảm, sẽ không có
một quy luật thép nào có thể tiếp tục phát huy đà tăng trưởng của nền
kinh tế toàn cầu. Ảnh hưởng chủ yếu ở đây là sự tái phân phối dầu khổng
lồ từ các nhà sản xuất dầu – phía đang nỗ lực khai thác vàng đen nhưng
lại nhận được ít nguồn lợi hơn – tới những người tiêu dùng được hưởng
lợi từ chi phí vận chuyển và năng lượng rẻ hơn, từ đó cho phép họ tiêu
nhiều tiền hơn vào hàng hóa và các dịch vụ, hoặc để tiết kiệm số lợi
nhuận của họ.
Hầu hết các nhà kinh tế đều đồng tình
với tuyên bố mới trong tháng này của Christine Lagarde, giám đốc điều
hành IMF: “Đây là một tín hiệu khả quan cho nền kinh tế toàn cầu”. Tác
động tích cực đến tăng trưởng sẽ tăng lên vì người tiêu dùng dầu có xu
hướng chi tiêu nhiều hơn so với lượng cắt giảm tiêu thụ của các nhà sản
xuất.
Tác Động Toàn Cầu
Gabriel Sterne, trường đại học Oxford
Economics giải thích, “Các nhà sản xuất có thặng dư tài chính và sẽ
không cắt giảm, trong khi giá cả thấp sẽ phân phối lại thu nhập cho
những người có xu hướng tiêu thụ và đầu tư cao hơn”. Quy mô của các tác
động toàn cầu rất quan trọng. Theo ước tính của khoa kinh tế trường đại
học Oxford Economics, giá dầu giảm 20% thì tăng trưởng toàn cầu sẽ tăng
0.4 % trong vòng 2 đến 3 năm. Kích thích chủ chốt của IMF cho thấy tác
động tương tự, nếu giá giảm 40% thì tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ tăng
0.5 % so với dự báo của IMF cho năm 2014 – 2016 so với năm vừa qua. Sau
đó, tăng trưởng được khuếch đại nếu có khả năng giúp các công ty tự tin
hơn và khuyến khích các công ty đầu tư và chi tiêu nhiều hơn.
Mặc dù thông thường, tác động lên nền
kinh tế thế giới rất lớn, nhưng vẫn luôn bị lấn át bởi các biến động
theo chiều hướng có lợi cho một số quốc gia và bất lợi đối với một số
quốc gia khác. Các quốc gia thu lợi lớn sẽ là các quốc gia đồng thời sử
dụng một lượng năng lượng khổng lồ và phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu
dầu. Theo tính toán của cơ quan xếp hạng tín dụng Mỹ Moody’s, các quốc
gia “đang chiến đấu với lạm phát cao và các khoản nợ trợ cấp dầu lớn,
chẳng hạn như Indonesia và Ấn Độ, sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ môi
trường giá thấp hơn”.
Khi quan sát 45 nền kinh tế khác nhau,
Oxford Economics đồng tình rằng các nền kinh tế của các nước nhập khẩu
dầu mới nổi có vẻ như sẽ trở thành các quốc gia được hưởng lợi nhiều
nhất. Hầu hết các nền kinh tế tiên tiến cũng sẽ được hưởng lợi đáng kể,
mặc dù các quốc gia này ít phụ thuộc vào dầu mỏ trong GNP (tính theo
đồng đô la) nên tăng trưởng theo tỉ lệ của các quốc gia này nhỏ hơn. Một
lợi ích nữa dành cho các nền kinh tế mới nổi là sự sụt giảm của giá
nhiên liệu, cho phép họ cắt giảm trợ cấp nhiên liệu, loại bỏ áp lực đáng
kể từ nguồn tài chính công. Lord Stern, trường Kinh tế London cho biết:
“Đây chính là thời điểm thích hợp để loại bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa
thạch và tăng cường giá nhiên liệu carbon.”
Ngược lại, đối với các nước xuất khẩu
dầu triển vọng lại ảm đạm hơn. Những nước có xu hướng chi tiêu hơn là
tiết kiệm các nguồn thu từ dầu, để điều chỉnh thích nghi với thực tế
mới. Moody’s ước tính, Nga và Venezuela sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất, vì
2 nước này có “chi tiêu phát sinh lớn, về mặt chính trị có thể gây
thách thức nếu cắt giảm”. Nước sản xuất dầu lớn nhất, Saudi Arabia, có
bộ đệm tài chính lớn hơn cả vì nước này thiên về tiết kiệm hơn là chi
tiêu. Thị trường tiền tệ đã phản ứng khá tàn nhẫn đối với các quốc gia
dễ tổn thương, ví dụ như đồng Rup đã bị đẩy xuống 40 % so với đồng đô la
trong vòng 6 tháng qua.
Cho đến nay, mọi việc đều diễn ra bình
ổn. Nhưng hiện đang có thêm nhiều nguồn dư luận cho rằng kỳ vọng về tăng
trưởng toàn cầu là một sự huyễn hoặc. Theo Stephen King, nhà kinh tế
đứng đầu của ngân hàng HSBC, tình hình cầu ảm đạm ở Trung Quốc, Nhật
Bản, Châu Âu trong suốt mùa hè qua là nguyên nhân chính của sự sụt giá,
do đó câu chuyện truyền thống “giá càng giảm càng tốt, giá càng cao càng
có hại” không còn đúng với thời điểm này.
Stephen King lập luận rằng chủ nghĩa lạc
quan sau khi giá dầu giảm trong dự toán kinh tế dựa trên sự phát triển
tích cực từ phía cung cho các nước phát triển ở phương tây, nhưng “có
rất nhiều tình huống mà giá dầu giảm đơn thuần báo hiệu một tình trạng
bất ổn lớn hơn”.
Mối lo giảm phát.
Theo quan điểm của Stephen King, phần
lớn các lần tăng trưởng trong quá khứ nhờ giá dầu đến từ việc lãi suất
thấp kết hợp với lạm phát giảm, điều đó không thể xảy ra khi chính sách
tiền tệ đã cố gắng hết sức để kích thích nền kinh tế. Nếu các hộ gia
đình ở Trung Quốc, Châu Âu và Nhật Bản cảm thấy có lý do tiết kiệm bất
cứ nguồn lợi nhuận nào, tăng cầu của thế giới sẽ bị hạn chế nghiêm
trọng.
Và một trong những lý do người tiêu dùng
ngày càng ít thiện chí mở hầu bao ra là trong thời gian này, “con dao”
lạm phát thấp đã “gần kề đến cổ”các nước tiên tiến. Trong khi giá ổn
định hoặc giảm xuống là dấu hiệu tích cực đối với mọi người, thì nó cũng
có khả năng đe dọa một giai đoạn ứ đọng kéo dài, nếu các hộ gia đình
chỉ thích “chờ đợi và quan sát” trước khi chi tiêu.
Lo lắng dẫn đến thái độ chi tiêu của các
hộ gia đình về khả năng giá có thể thấp hơn vào ngày mai có thể khiến
các công ty ngày càng trì hoãn đầu tư và các hộ gia đình hoãn lại quyết
định chi tiêu. Và kết quả là tăng trưởng kinh tế lẹt đẹt và giá chỉ giảm
nhẹ.
Mối đe dọa không dễ dàng biến mất. Theo
ước tính của Oxford Economies, với giá dầu 60 USD/thùng, 13 quốc gia
Châu Âu sẽ chứng kiến tỉ lệ lạm phát của họ giảm xuống mức âm, ít nhất
là tạm thời trong năm 2015.
Nhận thức được mối nguy hiểm về việc giá
dầu có thể tạo ra thất vọng và đau đớn kéo dài, Peter Praet, nhà kinh
tế đứng đầu của ngân hàng Trung ương châu Âu cho rằng, chính sách tiền
tệ Châu Âu không có lợi thế giả định việc giá dầu giảm sẽ tăng thu nhập
và chi tiêu trong thời gian này. Ông cho biết: “Trong những trường hợp
như thế này, chính sách tiền tệ cần phải khởi động chương trình phản ứng
ngay”.
Một số lý do khác cho thấy việc sụt giảm
động lực tăng cầu thông thườn có thể do việc đồng đô la tăng mạnh, đảm
bảo rằng giá dầu nội địa bên ngoài nước Mỹ đã không giảm vì bất cứ điều
gì giống như con số 40% được nhắc đến ở đầu bài.
Bên cạnh đó, lịch sử cũng đưa ra một số
bằng chứng về khả năng xuất hiện các mối lo ngại mới. Năm 1986, giá dầu
giảm hơn một nửa sau khi OPEC không thể kiểm soát nguồn cung, gây ra một
làn sóng kinh tế toàn cầu, đẩy tăng trưởng toàn cầu lên đến đỉnh điểm
4,6 % vào năm 1988, một tỉ lệ mà mãi cho đến năm 2000 mới lại đạt được.
Năm 2008, điểm yếu nghiêm trọng của cầu
của thế giới đã dẫn đến sụt giảm giá dầu từ 133 đô la xuống còn 40 đô
la/thùng, nhưng ngay cả với những sự lo ngại về giảm phát, dầu rẻ hơn đã
giúp phục hồi tăng trưởng vào năm 2010.
Sau đó, lịch sử lại cực kỳ thiên vị quan
điểm truyền thống về tiềm năng của dầu giá rẻ trong việc kích thích nền
kinh tế toàn cầu ở cả thời điểm tốt lẫn bất lợi. Tuy nhiên, các nhà
kinh tế cũng biết rằng, lịch sử chưa từng đóng vai trò chỉ dẫn tốt đối
với nhiều xu hướng kinh tế trong 6 năm vừa qua.
Mặc dù tăng trưởng toàn cầu hiện nay có
nhiều khả năng xảy ra hơn so với trước kia, nhưng không có sự đảm bảo
nào về việc dầu giá rẻ sẽ tạo ra điều thần kì cho hiện tại giống như
trong quá khứ.
Từ Trung Quốc tới Venezuela và các nước ở giữa – Ai thua? Ai thắng?
MEXICO
Mexico đang mở rộng lĩnh vực đầu tư
dầu khí của mình sang đầu tư tư nhân, sau gần 80 năm đầu tư dầu khí nằm
dưới sự kiểm soát của nhà nước. Nhưng đất nước này lại đang chứng khiến
đầu tư bị chèn ép do sụt giảm giá dầu. Các công ty đang cạnh tranh các
cơ hội khoan giếng có giá trị 100 triệu USD nói rằng họ có thể cân bằng
các lợi ích của họ. Tình hình khả quan cho Mexico là việc nhập khẩu
chiếm một nửa lượng cầu về xăng nên giá dầu rẻ lại là một điểm cộng. Thị
phần nhiên liệu thô chỉ chiếm tỉ lệ dưới 15% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Mexico, và một chương trình bảo hiểm rủi ro được cho là sẽ bảo vệ
nhiên liệu dầu thô khỏi những tác động của sụt giá trong năm 2015. Giá
mỗi thùng dầu của Mexico giảm đi 20% trong năm tới sẽ cộng thêm ít hơn
1% vào GDP. “Không đáng kể nhưng vẫn có thể kiểm soát được, nhìn từ góc
độ tài chính”.
MỸ
Sự sụt giảm giá dầu có thể sẽ làm
chậm lại cuộc cách mạng dầu khí đá phiến, nhưng vẫn là tin tốt cho nền
kinh tế Mỹ, khi lượng tiền mặt tiết kiệm được dày cộm trong các ví tiền
của hàng trăm triệu khách hàng. Giá dầu sụt giảm cho đến nay sẽ giúp cho
công dân Mỹ tiết kiệm khoảng 75 tỉ USD mỗi năm để chi tiêu cho các mặt
hàng khác – khoảng 0,7% tổng lượng tiêu dùng của Mỹ. Các nhà phân tích
đưa ra dự đoán về sự sụt giảm trong đầu tư vào dầu, nhưng Goldman Sachs
đã chốt con số ở khoảng không quá 0.1% GDP. Giá dầu thấp đã khiến các
nhà kinh tế tự tin hơn vào triển vọng cho năm 2015, với việc HSBC nâng
dự báo tăng trưởng năm tới từ 2,6 % lên 2,8 %. Dầu rẻ hơn sẽ đẩy lạm
phát vốn đã thấp sẵn xuống, nhưng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đang giải
quyết tác động đó như thể nó chỉ xảy ra một lần.
CHÂU ÂU
Châu
Âu nhập khẩu khoảng 88 % số dầu tiêu thụ, nhưng thành quả từ việc giá
dầu giảm khá khiêm tốn. Ngay từ ban đầu, giá năng lượng thấp xuất hiện
như cứu tinh đối với ngành công nghiệp Châu Âu trong khi ngành công
nghiệp này đang đấu tranh để duy trì khả năng cạnh tranh với Mỹ. Về giá
cả tiêu dùng, Mario Draghi, chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu, gọi
giá dầu rẻ hơn là “một động thái tích cực rõ ràng”. Jens Weidmann, một
thành viên của hội đồng quản trị ngân hàng này mô tả giá dầu thô thấp
“giống như một gói kích cầu nhỏ”. Nhưng ông Draghi cũng nhanh chóng xác
định các rủi ro khi EU lo ngại rằng lạm phát đang thấp một cách báo động
và có thể chuyển sang hướng giảm phát. Nhiều quốc gia đã trông chờ vào
lạm phát để giảm bớt gánh nặng nợ nần vốn đang kiềm chế sức chi tiêu
trong nước.
Châu Âu nhập khẩu khoảng 88 % số dầu
tiêu thụ, nhưng thành quả từ việc giá dầu giảm khá khiêm tốn. Ngay từ
ban đầu, giá năng lượng thấp xuất hiện như cứu tinh đối với ngành công
nghiệp Châu Âu trong khi ngành công nghiệp này đang đấu tranh để duy trì
khả năng cạnh tranh với Mỹ. Về giá cả tiêu dùng, Mario Draghi, chủ tịch
Ngân hàng Trung ương châu Âu, gọi giá dầu rẻ hơn là “một động thái tích
cực rõ ràng”. Jens Weidmann, một thành viên của hội đồng quản trị ngân
hàng này mô tả giá dầu thô thấp “giống như một gói kích cầu nhỏ”. Nhưng
ông Draghi cũng nhanh chóng xác định các rủi ro khi EU lo ngại rằng lạm
phát đang thấp một cách báo động và có thể chuyển sang hướng giảm phát.
Nhiều quốc gia đã trông chờ vào lạm phát để giảm bớt gánh nặng nợ nần
vốn đang kiềm chế sức chi tiêu trong nước.
Ông Drahi cảnh báo rằng giá dầu thấp có
thể “ảnh hưởng nghiêm trọng” tới vấn đề tiền lương thấp. Giá dầu rơi tự
do cũng đã gây thiệt hại cho sàn chứng khoán Châu Âu đặc biệt là chỉ số
chứng khoán mạnh FTSE của London. Các nhà phân tích hy vọng rằng các dự
án lớn ở Châu Âu, chẳng hạn như dự án tại vùng Bắc Hải của Anh, sẽ được
hoãn lại. Đức, nền kinh tế dẫn đầu của Châu Âu, đang dần chuyển sang sử
dụng năng lượng tái tạo, nhưng xăng dầu vẫn chiếm khoảng một phần ba mức
tiêu thụ năng lượng của nước này. Tuy nhiên, giá dầu rẻ và sự suy giảm
của đồng Euro đã thúc đẩy niềm tin của nhiều doanh nghiệp. Theo Viện
Nghiên cứu Kinh tế Ifo có trụ sở tại Munich, Đức, GDP của Đức được kì
vọng sẽ tăng trưởng 1.5 % trong năm 2015, trong đó, theo một dự báo tuần
trước của các viện nghiên cứu, một phần tư của một điểm phần trăm
(percentage point) là do sự sụt giảm giá dầu. Ifo cho biết, giá dầu giảm
sẽ tăng cường hoạt động kinh tế tổng thể “đặc biệt thông qua sự gia
tăng sức mua nội địa.”
ANH
Với việc việc giảm khai thác dầu nhanh
chóng ở vùng Bắc Hải, nước Anh đã giành chiến thắng một cách rất khiêm
nhường từ sự sụt giảm mạnh giá dầu. Đối với Aberdeen, thủ đô dầu mỏ của
Scotland và Anh, triển vọng có vẻ không khả quan kể từ khi thành phố
chuyên về khai thác granite lại chuyển sang chuyên về công nghệ khai
thác dầu dưới đáy biển – thứ ngày càng trở lên không kinh tế so với dầu
giá rẻ. Nhưng mất mát của Aberdeen chỉ là phần còn lại của sự tăng
trưởng của nước Anh. Giá dầu thấp đã kéo lạm phát xuống 1% và giảm bớt
áp lực về ngân sách cho hộ gia đình và doanh nghiệp, nâng cao sự tự tin
và cải thiện triển vọng tăng trưởng cho năm 2015. Công nghiệp dầu mỏ chỉ
chiếm trực tiếp khoảng dưới 2% trong GNP, và mặc dù các ngành công
nghiệp dịch vụ phụ trợ cũng rất quan trọng, nhưng không thể thay đổi
toàn cảnh về lợi nhuận hợp lý dành cho đại đa số doanh nghiệp không nhận
được đền bù thỏa đáng từ những tổn thất lớn trong ngành công nghiệp
dầu mỏ. Đối với các nguồn tài chính công, triển vọng ít lạc quan hơn vì
ngành công nghiệp dầu mỏ bị đánh thuế nặng, do đó, chi tiêu nhiều hơn ở
các lĩnh vực khác sẽ không đủ bù đắp các tổn thất khác trong doanh thu
dầu mỏ. Đối với các nhà dân tộc chủ nghĩa ở Scotland, mất nguồn thu từ
dầu mỏ sẽ chấm dứt mọi tranh cãi trong tương lai về việc liệu tương lai
của Scotland có sáng lạn hơn không nếu trở thành một quốc gia độc lập.
NA UY
Na Uy nổi lên với vị thế là một trong
những thị trường tốt nhất dành cho bất kỳ nhà sản xuất nào. Oslo không
chỉ có quỹ thịnh vượng lớn nhất thế giới – lớn gấp đôi nền kinh tế với
giá trị 870 tỉ USD – mà nó cũng có thể chịu được một mức giá thấp hơn.
Theo Fitch, thậm chí nếu dầu ở mức giá 40 đô la một thùng, Oslo vẫn sẽ
cân bằng ngân sách, ngưỡng thấp nhất cho tất cả các nhà sản xuất dầu
được đảm bảo bởi cơ quan đánh giá. Nhưng chính quyền Na Uy vẫn đang lo
ngại về sự phụ thuộc của đất nước Bắc Âu này về dầu mỏ. Ngân hàng trung
ương cắt giảm lãi suất bất ngờ xuống mức thấp kỉ lục trong tháng trước
mặc dù thị trường nhà ở bong bóng. Thống đốc ngân hàng trung ương,
Oystein Olsen lo ngại rằng, giá dầu dưới 70 đô la một thùng có thể đẩy
các công ty đến việc cắt giảm đầu tư và trì hoãn các dự án. Thăm dò Bắc
Cực – được chào hàng như ranh giới dầu lớn tiếp theo của Na Uy sau Biển
Bắc – được coi là đặc biệt nguy hiểm đối với nhà sản xuất lớn nhất ở Tây
Âu.
NGA
Đối với nền kinh tế Nga, sự sụt giảm của
giá dầu và khủng hoảng Ukraina đã thổi bùng lên một cơn bão hoàn hảo.
Dầu mỏ và khí đốt chiếm 75% kim ngạch xuất khẩu quốc gia, và hơn một nửa
nguồn thu ngân sách, tiền tệ của nước này theo sát bước chân của thị
trường dầu mỏ. Đồng Rúp, vốn đã sụt giảm giá trị dưới áp lực của những
rủi ro địa chính trị, đã giảm mạnh kể từ khi giá dầu mỏ tụt dốc không
phanh. Kết quả là, gánh nặng 600 tỉ đô la nợ nước ngoài của các ngân
hàng và công ty Nga, đang nặng hơn từng ngày –lo ngại thậm chí còn
nghiêm trọng hơn vì các lệnh trừng phạt của Phương Tây ngăn cấm hầu hết
những người đi vay tái cấp vốn từ khoản nợ này với Mỹ hoặc các ngân hàng
Châu Âu. Với Nga, vì phụ thuộc vào việc nhập khẩu hầu như tất cả mọi
thứ ngoại trừ hàng hóa, lạm phát đã tăng vọt lên 9.4% và dự kiến sẽ đạt
10% vào cuối năm 2014.
THỔ NHĨ KỲ
Mehmet Simsek, Bộ trưởng Tài chính của
Thổ Nhĩ Kỳ, cho rằng nước này không còn bị coi như là một trong “top 5
nước yếu” của các nền kinh tế mới nổi. vì sự sụt giảm giá dầu giúp thu
hẹp thâm hụt tài khoản vãng lai của Ankara, một điểm yếu kinh tế có
tiếng. Thổ Nhĩ Kỳ chủ yếu dựa vào nhiên liệu nước ngoài – chi phí nhập
khẩu năng lượng năm 2013 là 56 tỷ đô la – nhưng theo các quan chức, thâm
hụt thu hẹp đi khoảng hơn 400 triệu đô la cho mỗi 10 đô la giảm ở giá
dầu. Tác động tới người tiêu dùng chưa hiệu quả, vì một số loại thuế Thổ
Nhĩ Kỳ đứng vào hàng cao nhất thế giới. IMF đã cảnh báo rằng nền kinh
tế vẫn còn “nhạy cảm với những thay đổi trong điều kiện tài chính bên
ngoài”, và rằng những cải thiện cơ bản sẽ đòi hỏi sự tiết kiệm nhiều hơn
và cải cách cơ cấu đầy tham vọng. Vào tuần trước, Ankara đã báo cáo l
con số tăng trưởng gây thất vọng lớn, trong khi đồng Lira giảm xuống một
mức thấp so với đồng đô la ngày hôm qua giữa các mối lo ngại về các quy
định pháp luật và nguồn thông tin kinh tế mạnh của Mỹ. Yếu tố cuối cùng
là lời cảnh báo về một đợt tăng lãi suất của Mỹ, và các luồng quỹ
chuyển hướng đi kèm của các thị trường mới nổi, có thể có nhiều ảnh
hưởng hơn bất kì lợi ích nào của Thổ Nhĩ Kỳ từ việc trượt giá dầu mỏ
IRAN
Teheran vốn đã phải vật lộn với các tác
động của các lệnh trừng phạt của phương tây về chương trình hạt nhân của
đất nước này, trước khi dầu mỏ bắt đầu lao dốc. Chính phủ của tổng
thống Iran Hassan Rouhani đang tìm cách cân bằng lại nền kinh tế để giảm
thiểu sự phụ thuộc vào dầu mỏ trong ngân sách 93 tỉ USD trong năm 2015,
từ khoảng 50% xuống còn gần một phần ba – đó sẽ là mức thấp nhất trong
nhiều thập kỉ qua. Khi không có triển vọng tăng giá dầu nào trong tương
lai gần đây, vẫn còn có thể tạo thêm áp lực để trì hoãn thỏa thuận hạt
nhân trước hạn chót vào tháng 6. Các biện pháp trừng phạt ngân hàng của
Mỹ đã khiến Iran mất đi một nửa số doanh thu từ dầu mỏ. Nhưng một thỏa
thuận có thể sẽ cho phép Iran, quốc gia nắm giữ trữ lượng dầu lớn thứ tư
thế giới, có thể bán được nhiều năng lượng thô hơn và tiếp cận với
khoảng 100 tỷ USD dự trữ ngoại hối mà nước này đã bị cấm tiếp cận. Nếu
Iran thất bại, suy thoái nền kinh tế và bất ổn xã hội có thể xảy ra.
Ả RẬP XÊ ÚT
Đệm tài chính được đưa ra nhằm bù đắp
tác động của bất kỳ thâm hụt nội bộ tiềm năng nào, nhưng Ả Rập Xê út–
nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới – vẫn sẽ là một trong những quốc
gia vùng vịnh bị ảnh hưởng nhiều nhất do giá dầu giảm. Theo Moody’s, tại
mức giá dầu 60 USD một thùng, vương quốc có biên lai về dầu chiếm 85%
xuất khẩu và 90% doanh thu tài chính trong năm 2013, sẽ bị thâm hụt tài
khóa tương đương với 14% GDP. Dự trữ ngoại hối khổng lồ, ước tính gần
740 tỉ USD, sẽ bù đắp một số tác động tiêu cực ngay cả khi giá dầu giảm
mạnh hơn, nhưng một kịch bản được đề cập nhiều như vậy vẫn có nghĩa: khả
năng siết chặt chi tiêu cho các chương trình xã hội vốn đã tăng lên
đáng kể theo tình trạng bất ổn liên quan đến cuộc nổi dậy ở Ả Rập. Mặc
dù vậy, Riyadh đã tận dụng lợi thế lãnh đạo của mình trong OPEC để ngăn
cản những lời kêu gọi cắt giảm sản xuất.
NHẬT BẢN
Nhật Bản là quốc gia có lợi thế rõ ràng
từ việc dầu thô rớt giá. Trong năm tài khóa vừa qua tới tháng 3 năm
2014, quốc gia nghèo nhiên liệu này đã dành ra 28,4 ngàn tỉ Yên tương
đương với 236 tỉ USD vào nhiên liệu khoáng sản. Trong đó có 90% liên
quan tới dầu mỏ, cứ mỗi 10% giá dầu giảm trên một thùng đại diện cho cổ
tức trị giá khoảng 2,6 ngàn tỉ Yên. Và 30% giá giảm sẽ mang lại lượng
tiền mặt tương đương so với lượng tiền mà chính phủ đưa ra trong năm
2014, khi chính phủ tăng thuế tiêu thụ lên 3 điểm phần trăm. Trong thực
tế, theo Hideo Hayakawa, cựu trưởng phòng kinh tế của Ngân hàng Nhật
Bản, thâm hụt ngân sách quốc gia ep hẹp đã “được thanh toán đầy đủ từ
nước ngoài”. Nhưng giá dầu thấp là tín hiệu đáng mừng cho ngân hàng Nhật
Bản BoJ, vì đó có thể là trở ngại cho quá trình mục tiêu lạm phát tăng
đến mức 2%.
TRUNG QUỐC
Trung Quốc hưởng lợi ít hơn so với kỳ
vọng từ việc giá dầu giảm, dù nước này là quốc gia nhập khẩu dầu lớn
nhất thế giới. Một phần là do sự phụ thuộc lớn vào than đá, nghĩa là hầu
hết các ngành kinh tế đều có liên quan đến giá dầu thông qua lĩnh vực
vận tải. Giá dầu diesel và giá xăng được nhà nước đặt ra, ngừng bám đuổi
sát nút giá dầu ở khoảng 80 USD một thùng. Đây là tin tốt cho các nhà
máy lọc dầu của nhà nước CNPC và Sinopec, nhưng lại không thực sự tốt
đối với các tài xế và doanh nghiệp. Các ngân hàng chính sách Trung Quốc
cũng tiếp xúc nhiều với các nước xuất khẩu dầu lớn như Venezuela. Vì
thế, Bắc Kinh rất dễ bị tổn thương khi giá dầu giảm đánh một đòn trúng
đến khả năng trả nợ của các nước đó.
ẤN ĐỘ
Phụ thuộc lớn vào nhập khẩu dầu mỏ và bị
bao vây trong nhiều năm bởi thâm hụt ngân sách và lạm phát cao, Ấn Độ
là phía hưởng lợi rõ ràng từ giá dầu giảm. Đến tháng 10, chi phí nhập
khẩu dầu đã giảm xuống còn 164 tỉ USD trong vòng 12 tháng trước đó, từ
mức đỉnh điểm 169 tỉ USD trong tháng 7, và dự kiến sẽ còn giảm hơn nữa.
Chính phủ của thủ tướng Narendra Modi đã tận dụng cơ hội để từ bỏ các
khoản trợ cấp dầu diesel cho người lái và nâng thuế đối với cả xăng lẫn
dầu diesel. Giá dầu giảm cũng đã cắt giảm thương mại, tài khoản vãng lai
và thâm hụt ngân sách, trong khi đó với sự trợ giúp của giá dầu lạm
phát đã giảm – xuống còn 4,4% trong tháng 11 – dẫn đến tỉ lệ lãi suất
thấp hơn và thúc đẩy đầu tư. Ấn Độ cũng không phải hứng chịu tác động
nặng nề từ một số yếu tố tiêu cực như sự tác động đồng thời tới khối các
nền kinh tế lớn mới nổi Brics như Nga: hàng hóa, chủ yếu là dầu mỏ,
chiếm hơn một nửa kim ngạch nhập khẩu của Ấn Độ và chỉ có 9% kim ngạch
xuất khẩu, chủ yếu là thực phẩm.
NIGERIA
Nigeria nổi lên với tư cách là nền kinh
tế lớn nhất châu Phi phần lớn nhờ vào sự tăng trưởng nhanh chóng của
lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn phụ thuộc vào dầu mỏ,
trong hơn 60% doanh thu nhà nước và hơn 90% kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy,
đang tồn tại một cơn bão quần tụ trong lòng nước sản xuất hàng đầu châu
Phi này. Song song với tình trạng hỗn loạn là sự leo thang của các lực
lượng nổi dậy Hồi Giáo ở các khu vực phía bắc. Sản xuất dầu cũng sụt
giảm – công suất trung bình thấp hơn 2,4 triệu thùng/ngày, do tình trạng
trộm cắp quy mô công nghiệp và thiếu đầu tư sau 5 năm tê liệt pháp lý
về cải cách công nghiệp. Các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đã bị tình
trạng này khiến cho sợ hãi, chính phủ đã cắt giảm chi tiêu cho năm 2015;
cho đến nay, thị trường chứng khoán đã giảm 23%, và đồng Naira đã tiếp
tục chịu áp lực sụt giá kể từ khi mất 8% giá trị vào tháng trước.
VENEZUELA
Theo ước tính của các chuyên gia kinh
tế, Venezuela đã mất 700 triệu USD cho mỗi đồng đô la sụt giảm trong giá
dầu. Thậm chí trước lần sụt giảm mới nhất, đã có suy đoán cho rằng quốc
gia có dầu mỏ chiếm đến 96% doanh thu xuất khẩu này có nguy cơ vỡ nợ.
Những lo ngại đã gia tăng trong nhiều tuần gần đây. Nền kinh tế dự kiến
sẽ giảm còn khoảng 3% trong năm nay, trong khi người dân đang phải vật
lộn với tình trạng thiếu hàng hóa cơ bản và lạm phát đang ở mức 63%.
Tổng thống Venezuela, Nicolás Maduro đã tuyên bố giá hợp lý cho một
thùng dầu là 100 USD, nhưng theo ước tính của các nhà phân tích tại tập
đoàn tư vấn kinh tế Ecoanalítica có trụ sở đặt tại Caracas, nước này cần
giá dầu Brent ở trên mức 130 USD để cân đối ngân sách. Để bù đắp một số
tổn thất, các chuyên gia ngành công nghiệp tuyên bố, Venezuela cần tăng
cường sản xuất từ 2,4 triệu thùng đến 2,8 triệu thùng một ngày. Nhưng
ngay cả khi hoàn cảnh xảy ra có lợi nhất thì Venezuela cũng phải mất
nhiều năm để mọi hoạt động đi vào trạng thái ổn định.
____________________________
Dựa theo báo cáo của nhóm: Andres
Schipani tại Caracas, Kathrin Hille tại Moscow, Daniel Dombey tại
Istanbul, Jude Webber tại Mexico City, Najmeh Bozorgmehr tại Tehran,
Robin Harding tại Washington, Ben McLannahan tại Tokyo, Lucy Hornby tại
Beijing, Richard Milne tại Stockholm, Victor Mallet tại New Delhi,
Jeevan Vasagar tại Berlin, Christian Oliver tại Brussels, William Wallis
và Anjli Raval tại London
Copyrights © 2007-2014 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
Comments
Post a Comment