Ôn cố tri tân.
Wednesday, September 2, 2015
NGÔ ĐÌNH DIỆM ---- --MỘT ÂN NHÂN CAO QUÝ CỦA PHẬT GIÁO
On Wednesday, August 19, 2015 11:25 PM, " thanh
pham [Daploisongnui]" <>
wrote:
NGÔ ĐÌNH DIỆM ---- --MỘT ÂN NHÂN CAO QUÝ CỦA PHẬT GIÁO
Subject: Re: Cụ Ngô Đình Diệm -- Hoàng đế Bảo Đại mời ông Ngô Đình
Diệm về làm Thủ tướng , sau đó được dân bầu làm Tổng thống --- Thời gian 1954
đến 1963 là thời kỳ Phật Giáo phát triển huy hoàng nhất trong 60 năm qua .
TIÊC THUONG MỘT ÂN NHÂN CAO QUÝ CỦA PHẬT GIÁO
Quốc khánh 1961 --Hàng năm vào dịp Lễ Quốc Khánh 26-10 , TT Diệm vui vẻ tiếp đón phái đoàn Phật Giáo
Subject: Re: NAY SỰ KIỆN ĐÃ
SÁNG TỎ: Dòng họ Ngô Đình? Fw: TIEC THUONG TONG THONG Ngô Đình Diệm ---Ngô
Đình, một dòng họ đáng kính trong lịch sử Việt Nam... [1 Attachment]
Ông Nguyễn Kim Khánh nhận xét rất đúng
Nhìn lại lịch sử từ khi Hoàng đế Bảo Đại mời ông Ngô Đình Diệm về
làm Thủ tướng , sau đó được dân bầu làm Tổng thống --- Thời gian 1954 đến 1963
là thời kỳ Phật Giáo phát triển huy hoàng nhất trong 60 năm qua .
TT Diệm đã bổ nhiệm và gắn lon tướng ----từ chuẩn tướng lên đại tướng -- cho hơn hai mươi tướng lãnh .- Tất cả những tướng này đều là người Phật Tử --và đều được TT yêu thương , bổ nhiệm vào những chức vụ quan trọng chính phủ và quân đội .
TT Diệm đã bổ nhiệm và gắn lon tướng ----từ chuẩn tướng lên đại tướng -- cho hơn hai mươi tướng lãnh .- Tất cả những tướng này đều là người Phật Tử --và đều được TT yêu thương , bổ nhiệm vào những chức vụ quan trọng chính phủ và quân đội .
TT Diệm không thăng cấp tướng lãnh nào cho người
Công Giáo cả .
Cho nên khi Tướng Dương Văn Minh , Tôn Thất Đính, Trần Văn
Đôn..v..v.. phản bội lại thầy , ( đồng thời cũng
là ân nhân ), của mình... thi TT Diệm chắc chắn phải chết
thôi .
Nếu TT Diệm sống lại và nhìn thấy Hô Chi Minh ngôi
trên bàn tho` trong cac chùa của Phật Giáo nhu ngày hôm nay
dưới chế độ CS --- thì có lẽ TT Diệm là người đau lòng nhất .
PHẬT GIÁO TIẾC THƯƠNG VÀ TRI
ÂN TT NGÔ ĐÌNH DIỆM . Môt ân nhân cao quy cua PG .
------------
GS NGUYEN KIM
KHANH
Trong cuốn "Our Vietnam Nightmare" bà
Maguerite Higgins cho biết: "1275 ngôi chùa được xây cất, 1295 ngôi chùa được trùng tu dưới trào Ngô Đình Diệm".
- Theo cụ Đoàn Thêm và cụ Mai Thọ Truyền thì trước khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, Nam Việt Nam chỉ có 2206 ngôi chùa, đến năm 1963 số chùa tăng lên thành 4766 ngôi. Nhiều ngôi chùa được quốc gia trợ cấp tiền bạc để xây cất.
- Về các sở văn hóa, trước
khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, đạo Phật chưa mở trường học. Dưới chế
độ Tổng thống Ngô Đình Diệm, hệ thống Trung tiểu học Bồ Đề ra đời. Đỗ Mậu cho biết năm 1970 Phật giáo có 160 trường trung tiểu học trong cả nước. Đa số trường này được xây cất trước ngày 1.11.1963.
Đọc những thành quả trên, liệu người ta có dám kết luận Tổng thống Ngô Đình Diệm và chế độ của ông đã "kỳ thị Phật giáo" không ?
Xét chung trên bình diện chính sách quốc gia cũng như thành quả của đạo Phật trong chín năm cầm quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm, người ta không tìm ra được bằng cớ nào chứng tỏ Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính quyền của ông kỳ thị đạo Phật, kỳ thị giáo hội Phật giáo, kỳ thị tín đồ đạo Phật.
Hàng năm vào dịp Lễ Quốc Khánh 26-10 , TT Diệm vui vẻ tiếp đón phái đoàn Phật Giáo
Đệ Nhất Cộng Hòa có "kỳ thị Phật giáo" không?
GS Nguyễn Kim Khánh
Giáo lý nhà Phật rao giảng
thập nhị nhân duyên, để đi đến kết luận triệt để là bài trừ sắc tướng. Đạo Phật
cũng như Đạo Thiên Chúa cao khiết mênh mông, bao trùm toàn thể nhân loại, là
gia sản chung của toàn thể loài người, không thể đóng khuôn đạo giáo trong một
văn bản của một quốc gia. Các nhà lãnh đạo của đạo Phật đã mắc vào vòng sắc
tướng và họ đã chịu hậu quả như thế này: Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm Việt Nam
Cộng Hòa ngày 30.4.1975, chúng tuyên bố hủy bỏ tất cả luật lệ của Việt Nam Cộng
Hòa. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập do sắc lệnh
158/SL/CP, ngày 14.5.1964. Sắc lệnh ấy, cũng cũng chịu chung số phận với mọi
văn bản lập pháp, lập quy của Việt Nam Cộng Hòa.
Kỳ thị Phật giáo trong chính sách và xã hội:
Trước kia, Phật giáo Thống
nhất đã đòi: Một trong năm nguyện vọng của Phật giáo đồ" là yêu cầu
chế độ Ngô Đình Diệm để cho tăng ni được tự do truyền đạo và hành đạo". Có
lẽ trong trí các vị này nghĩ rằng Phật giáo bị kỳ thị nên tăng ni không được tự
do hành đạo và tự do truyền đạo. Nhưng họ lại không đưa ra được bằng chứng nào
cụ thể chứng minh chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra những khó khăn hoặc ngăn cản
việc truyền đạo hay hành đạo.
Ngược lại người ta có rất
nhiều bằng chứng, chứng minh đạo Phật đã phục hưng rất mạnh trong chín năm cầm
quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trước nhất, là số chùa được xây cất.
- Trong cuốn "Our Vietnam Nightmare" bà
Maguerite Higgins cho biết: "1275 ngôi chùa được xây cất, 1295 ngôi chùa được trùng tu dưới trào Ngô Đình Diệm".
- Theo cụ Đoàn Thêm và cụ Mai Thọ Truyền thì trước khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, Nam Việt Nam chỉ có 2206 ngôi chùa, đến năm 1963 số chùa tăng lên thành 4766 ngôi. Nhiều ngôi chùa được quốc gia trợ cấp tiền bạc để xây cất.
- Về các sở văn hóa, trước
khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, đạo Phật chưa mở trường học. Dưới chế
độ Tổng thống Ngô Đình Diệm, hệ thống Trung tiểu học Bồ Đề ra đời. Đỗ Mậu cho biết năm 1970 Phật giáo có 160 trường trung tiểu học trong cả nước. Đa số trường này được xây cất trước ngày 1.11.1963.
Đọc những thành quả trên,
liệu người ta có dám kết luận Tổng thống Ngô Đình Diệm và chế độ của ông đã
"kỳ thị Phật giáo" không ?
Xét chung trên bình diện
chính sách quốc gia cũng như thành quả của đạo Phật trong chín năm cầm quyền
của Tổng thống Ngô Đình Diệm, người ta không tìm ra được bằng cớ nào chứng tỏ
Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính quyền của ông kỳ thị đạo Phật, kỳ thị giáo
hội Phật giáo, kỳ thị tín đồ đạo Phật.
Khi tôi đưa ra một vài vấn
đề để viết bảng so sánh dưới đây, tôi không đề cao Công giáo hay miệt thị Phật
giáo. Tạm thời tôi chỉ nói về:
Yếu tính đạo giáo
- Đạo Phật không hẳn là một tôn giáo, vì tôn giáo phải có Thần Linh.
Đức Phật không phải là Thần
Linh. Ngài chỉ là bậc Đại giác, bậc Chánh Đẳng Chánh giác, nói theo chữ Phạn là
A-niệu-da-la Tam-niệu Tam bồ đề (Amuttara Samyak Samboddhi). Các đệ tử theo
ngài đều là tỳ kheo như nhau, không đẳng cấp. Đã không không hẳn là tôn giáo,
thì cũng không hẳn phải có giáo hội mà chỉ có những tu hội quy tụ những người
đồng một chí hướng trong một tu viện hay một ngôi chùa.
- Đạo Công giáo rõ ràng là một Tôn giáo vì có Thần Linh Tối Cao là Thiên Chúa, và có hàng giáo phẩm
thống thuộc từ cao xuống thấp tỏa rộng sinh hoạt trong cộng đồng tín đồ. Chúa
Jêsu đã thiết lập giáo hội, đặt ông Phê-rô làm đầu chăn "các chiên mẹ và
chiên con". Chúa như cây nho, tín đồ là cành nho. Thánh Phao-lô gọi giáo
hội là là "thân thể mầu nhiệm" của Chúa. Giáo hội trở thành keo sơn
liên kết người sống và kẻ chết: Giáo hội đang chiến đấu là giáo hội hữu hình,
gồm toàn dân Thiên Chúa ở trần gian, giáo hội khải hoàn là toàn thể dân Chúa
trên Thiên đàng, giáo hội đau khổ là toàn thể dân Chúa đang chịu thanh luyện sau
khi chết, để nhập vào giáo hội khải hoàn.
- Hệ quả: Chữ Giáo Hội trong đạo Phật là mượn của Đạo Thiên Chúa: Là Ecclesia, Église, Church, theo Thánh Kinh
(Mat.16,19), nhưng chỉ mượn được "sắc tướng" thôi, chứ bản chất thì không thể mượn được. Vì thế, tín đồ Công giáo
đoàn kết keo sơn thành một cộng đồng rõ nét, và tuân lệnh chủ chiên của mình là
hàng giáo phẩm trong vấn đề đức tin. Đời sống giáo hội thông hiệp với tín đồ
bằng lời Chúa do giáo sĩ giảng dạy và nuôi dưỡng tinh thần tín đồ bằng các phép
Bí tích. Bí tích Thánh thể trung tâm của đời sống Công giáo. Điều này, đạo Phật
không thể có được, vì trong đạo Phật ai tu nấy chứng. Trong Tam Bảo Phật, Pháp,
Tăng ai cũng phải tự mình mà đạt tới. Chính đức Phật đã dạy:
"Ta là Phật đã
thành, chúng sanh là Phật sẽ thành" và "Chúng sanh hãy tự đốt đuốc
tìm đường mà đi".
Tuy gọi là "quy y Tam
Bảo", nhưng tín đồ đạo Phật hoàn toàn tự do, không lệ thuộc vào ai. Đã
không lệ thuộc ai, thì sự giao tế trong một cộng đồng chỉ còn là giao tế xã hội
hàng ngang. Kết quả sự tôn kính dành cho kẻ truyền pháp (tương đương với giáo
sĩ truyền giáo) giảm. Những cái giảm kia xẩy ra ngay trong cộng đồng đạo Phật
tỏa rộng ra toàn xã hội, đưa đến Ngộ Nhận là "kỳ thị Phật giáo".
- Về những người làm
việc tôn giáo
- Đạo Phật: Các tu sĩ đồng
hạng đều là tỳ kheo, tức là những người sống theo lối tu hành của Đức Phật.
Muốn làm tỳ kheo chỉ cần tâm nguyện xuất gia là đủ. Xuất gia rồi, thì giữ giới
luật là thành tỳ kheo. Không bắt buộc trình độ văn hóa hoặc là phải tu học bao
lâu. Không có các trường chuyên nghiệp bắt buộc đào tạo tỳ kheo theo một học
trình mở rộng cả đạo lẫn đời. Thường thì các vị sư cụ (đại lão Hòa thượng,
Thượng tọa) thu nhận một số đệ tử rồi tự các ngài huấn luyện lấy, xong cho thụ
giới thành tỳ kheo. Bởi đó, trình độ văn hóa tổng quát của các vị tỳ kheo
thường yếu kém, nhiều vị ngay sự hiểu biết về Phật pháp cũng rất lờ mờ,
pha trộn tín ngưỡng dân gian, ngoại đạo. Ấy là chưa nói tới một số kẻ lợi dụng
như: họ nguyên chỉ là thầy cúng của "đạo" dân gian, bỗng chốc mặc áo
tỳ kheo nhập hàng tu sĩ của đạo Phật.
- Đạo Công giáo: Người giáo
sĩ Thiên Chúa dù là giáo sĩ dòng hay giáo sĩ triều (thuộc mỗi địa phận) được
đào tạo trong các trường chuyên nghiệp, theo học một học trình Quốc Tế là bảy
năm, sau khi tốt nghiệp bậc trung học hay "phổ thông". Ở Đại Chủng
Viện, họ được học đủ các môn học về đạo và đời, học về phương pháp truyền giáo,
và học cả về các tôc giáo khác… Đại Chúng Viện trang bị cho họ đủ khả năng trở
thành những "cán bộ" tôn giáo xuất sắc. Nhiều người trong số họ uyên
bác và nói chung đều có học thức.
- Hệ quả: Xã hội Việt Nam
trọng kẻ sĩ, những kẻ có học thức thường được kính trọng. Các nhà sư nhiều
người xuất thân từ thầy cúng, hoặc là đệ tử của các sư cụ khả năng yếu kém, thì
sẽ không đủ uy tín lãnh đạo và không tạo được sự kính trọng của người khác.
Điều này, đem so sánh với giáo sĩ Công giáo sẽ tạo ra sự ngộ nhận là "kỳ
thị Phật giáo".
Trước năm 1955, đạo Phật ở
Việt Nam chỉ là những "tập đoàn" rời rạc, quy tụ chung quanh một ngôi
chùa hay một tu viện, lấy việc tu niệm làm chính. Các "giáo hội" Tăng
già, Thiền tịnh đạo tràng, Tăng sĩ Theravada, Tăng già nguyên thủy… giữ
nguyên bản sắc của mình giống như dòng tu riêng biệt, không lệ thuộc một
"giáo hội" trung tâm như Công giáo. Các vị tỳ kheo tu hành thuần túy
không màng tới chuyện đời, không lưu tâm tới vật chất. Những dòng tu hoằng
dương đạo pháp, không lệ thuộc một giáo quyền nào cả. Ở thôn quê có các ngôi
chùa làng. Chùa làng là công sức và của cải của dân làng chung lưng mà dựng
nên, không thuộc tập đoàn Phật giáo nào. Khi đã có chùa rồi, thì hội đồng kỳ
mục tự tìm kiếm lấy sư để mời về trụ trì, và dân làng cũng có quyền trục xuất
vị sư ra khỏi chùa, nếu ông ta phạm giới.
Từ năm 1955, do cố gắng
vượt bực về tài chánh, do chính quyền giúp đỡ, Tổng giáo hội Phật giáo Việt Nam
đã có các hoạt động xã hội và từ thiện: hệ thống trung tiểu học Bồ Đề ra đời,
mà trước đó không có.
Đồng hóa đạo Phật với dân tộc:
Chắc chắn dân tộc Việt Nam đã có một đạo giáo khác hẳn với đạo Phật. Đạo ấy, là việc thờ cúng tổ tiên và trọng thánh thần. Việc thờ cúng tổ tiên minh thị chấp nhận như chân lý của dân tộc là linh hồn bất diệt. Vì linh hồn bất diệt cho nên mới có việc thờ cúng người chết, xem người chết như còn hiện diện và vẫn tác động vào các sinh hoạt của người sống.
Trong khi đó, thì giáo lý căn bản làm nên Phật pháp của đạo Phật là thuyết luân hồi, phủ nhận linh hồn hằng sống. Đức Phật không dạy rõ, nếu linh hồn không bất diệt thì cái gì sẽ làm cho các pháp (con người cũng là một pháp) được tái sinh vào các cảnh giới trước khi chấm dứt sinh tử thoát khỏi luân hồi mà vào Niết Bàn ???
Các nhà Phật học đã sáng chế
ra duy thức học. Cái thức cuối cùng là A-lại-da thức, tiếng Việt dịch là Tâm
thức, tức là cái thức "máy móc" tạo thành cái nghiệp theo luân hồi. Dù sao thì thuyết luân hồi
cũng trái hẳn với tín ngưỡng của dân tộc là lòng tin vào linh hồn bất diệt qua
việc thờ cúng người chết.
Chính vì thế, nên cho dù đạo
Phật đã vào nước Việt sớm hơn đạo Thiên Chúa, nhưng mỗi ngày càng xa rời với
niềm tin của Đạo Việt tin vào linh hồn hằng sống; đến khi thấy con số tín hữu
Công giáo tăng lên vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa, thì các tăng lữ đạo Phật vì không
biết làm gì hơn, nên đã lên án chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm là "kỳ
thị Phật giáo", là bất công và gian trá.
Nhưng đánh thẳng vào Công
giáo không được, vì phạm tới tín ngưỡng của người khác, được xem là tội mọi rợ,
bị cả thế giới lên án, vì đó là nhân quyền căn bản và thiêng liêng nhất của con
người. Ngay cả cộng sản bài trừ tôn giáo triệt để, nhưng cũng không dám công khai
xúc phạm thẳng tới tôn giáo, họ phải nhờ cái cầu "giai cấp". Ở Việt
Nam những người thù nghịch Thiên Chúa Giáo đánh Công giáo bằng cách chụp cho
Công giáo một cái mặt nạ, một cái mũ. Mặt nạ ấy, là Cần Lao, nhà Ngô và
chủ nghĩa Thực dân Pháp. Đọc những lời lên án Công giáo đầy rẫy ta thấy rõ
"Thực dân, Cần Lao, nhà Ngô chỉ là cái diện để những người thù nghịch đánh
vào Công giáo, không những Công giáo Việt Nam mà cả Công giáo hoàn cầu, là Tòa
Thánh La Mã.
Nghiên cứu về mưu kế, sách
lược này được sách "Tam thập lục kế" gọi là "Thanh Đông kích
Tây hay dương Đông kích Tây". Ở đây không phải là nhà Ngô hay thực dân, mà
chính là Đạo Thiên Chúa vậy.
Trở lại cuộc đấu tranh của
đạo Phật vào năm 1963. Đa số các tông phái của đạo Phật chỉ lo tu thân, học
Phật, nhiều tông phái không muốn lao thân vào cuộc đấu tranh lật đổ "nhà
Ngô". Nhiều vị tỳ kheo đức độ nhìn nhận Tổng thống Ngô Đình Diệm là người
có công giúp cho các đạo giáo phục hưng và phát triển ở miền Nam, trong đó có
đạo Phật. Nếu cứ để tình trạng ấy thì các nhà sư chính khách không thể thực
hiện được mưu đồ của mình, mà việc trước mắt là đoàn kết các tông phái rời rạc
trong cùng một đạo thu về một mối. Họ đã phát động cuộc đấu tranh: Tổng thống
Ngô Đình Diệm trở thành thứ "oan dương" cho họ đổ lên đầu những tội
lỗi tưởng tượng.
Kẻ làm chính trị được phép
sử dụng những thủ đoạn, được quyền dùng những giả diện để chiếm mục tiêu, nhưng
phải thành thật với chính mình, nếu không thì chết. Hứa Du hỏi Tào Tháo về quân
lương. Tào Tháo làm mặt bảnh nói quanh, nhưng trong bụng thì lo lắm vì quân hết
lương rồi. Sau phải thưa thiệt để Hứa Du hiến kế.
Những kẻ nhận phần trăm dân
số đạo Phật ở Việt Nam đã vẽ ra một tương lai tươi sáng cho "đạo pháp và
dân tộc" bằng không tưởng, rồi quyết tâm hạ bệ "nhà Ngô". Đến
khi "nhà Ngô" đổ rồi, thì đạo pháp trở thành mạt pháp, còn dân tộc
thì điêu linh khốn cùng tới tận đất đen. Các tay chính khách đạo Phật từng ngụy
trang thành tăng sĩ chính khách, đã đồng hóa đạo Phật với dân tộc, để nhận cái
số đông quần chúng làm quần chúng của mình theo cái cách thức của những kẻ làm
chính trị. Công thức "đạo pháp và dân tộc" không những trái với lịch
sử mà còn tỏ ra là gian dối. Nay họ vẫn chưa từ bỏ tham vọng, dù thực chất của
họ chẳng có gì. Những ai có lòng với đất nước Việt Nam không nên ngại ngùng gì
mà phải đưa vấn đề ra trước ánh sáng, để quốc dân biết mà tránh sau này.
Nguyễn Kim Khánh
Comments
Post a Comment