Mong rằng là một câu chuyện thật, không là hư cấu. Mời qúy vị đọc.
Thức
Tỉnh
Thày Chùa đáng kính...
Tác
Giả: Phan Xuân Sinh
Luật vượt biển đến Hồng Kông năm 1982, sau khi cải tạo tại Tiên Lãnh được sáu năm. Chuyến đi của anh suông sẻ chỉ mất hai ngày hai đêm trên biển. Điều trước tiên, anh đánh điện tín về nhà báo tin cho vợ con biết anh đã vượt thoát khỏi Việt Nam an toàn để chị mừng. Anh theo chân những người tị nạn vào phố Hồng Kông xin việc làm, anh được một nhà hàng sắp xếp cho anh rửa chén bát, việc làm cũng không đến nỗi khổ cực, lương tương đối khá. Mỗi ngày người ta cho anh mang về trại thức ăn dư thừa để anh chia cho những người không tìm được việc làm. Ở đây anh cảm thấy thoải mái hơn khi ở quê nhà rất nhiều. Không ai quan tâm hoặc theo dõi kẻ khác, không phạm pháp thì không sợ sệt ai. Trong trại ai cũng thân thiện, tận tâm chỉ vẽ nhau những điều người khác không biết. Mọi người chung quanh thương mến anh vì bản tính hiền lành. Ở Hồng Kông gần 1 năm thì anh được phái đoàn Mỹ nhận cho đi định cư.
Thế nhưng có một điều
làm anh thắc mắc mãi, tại sao một ông thầy chùa đã giúp đỡ anh tận tình như vậy
? Anh chưa hề quen biết ông. Anh nhớ lại cái đêm vượt biên bị Công An phát
giác, anh nhảy xuống sông vừa bơi vừa lặn, trước khi tàu Công An kẹp sát. Lên
bờ vì trời tối anh không biết đây là nơi nào. Anh lần mò trong bóng tối chừng
ba tiếng đồng hồ vẫn không thấy đường cái. Bỗng nhiên anh trông thấy ánh đèn từ
xa, anh đi tới, thì ra đây là ngôi chùa nhỏ. Anh vào chùa gặp vị sư còn trẻ, Sư
hỏi anh cần gì ? Anh tình thật thưa rằng anh đang lạc đường và xin được giúp
đỡ. Vị Sư đưa anh vào chánh điện rồi đến thưa với thầy trụ trì. Thầy trụ trì
chừng trên dưới sáu mươi tuổi, mặc bộ đồ màu lam, nước da ngăm đen, khuôn mặt
hiền từ. Khi nhìn thấy anh Thầy có vẻ hơi giật mình. Thầy bảo người Sư trẻ dọn
cơm cho anh ăn. Trong lúc nói chuyện để anh an tâm, Thầy cho anh biết sẽ không
có ai làm phiền hay quấy rối anh. Anh muốn ở đây bao lâu cũng được. Thầy đích
thân dọn phòng cho anh ngủ. Anh tự hỏi giữa lúc khó khăn, gạo châu củi quế, thế
mà nhà chùa lại rộng lượng quá vậy.
Sáng dậy, anh bước ra
phòng rửa mặt thì đã thấy Thầy ngồi tại bàn ăn đang uống trà. Thầy mời anh cùng
uống trà và nói chuyện. Tuyệt đối Thầy không hỏi anh về cuộc sống hiện thời, về
gia đình, về nơi ăn chốn ở. Thầy dặn anh có ai hỏi thì bảo anh là bà con ở quê
ra thăm thầy. Thầy cũng cho anh biết ngôi chùa nhỏ nghèo nàn nên ăn uống sơ
sài, không biết anh có chịu được không ? Anh chắp tay cám ơn Thầy và nói “Được
Thầy bảo bọc, chuyện ăn uống không thành vấn đề, tất cả đều tốt với tôi. Xin
Thầy đừng bận tâm”. Khi còn ở nhà, anh và vợ con bữa đói bữa no, làm gì được
như thế nầy. Trong những ngày ở chùa, Thầy ít khi gặp anh, ít nói chuyện với
nhau ngoại trừ vào bữa ăn. Không hiểu sao Thầy cố giữ anh lại, mà không cho
biết lý do. Chừng mười ngày sau, khi ăn cơm chiều xong, Thầy bảo anh ngồi lại
để Thầy nói chuyện. Chỉ còn lại hai người đối diện nhau, Thầy nói với anh :
- “Khi anh bước chân
vào chùa nầy, tôi đã biết anh là người trốn thoát Công An lùng bắt vì tội vượt
biên. Ở đây tôi đã gặp vài trường hợp giống anh và tôi đã che chở nên họ về nhà
an toàn. Như anh biết chùa là nơi mở rộng vòng tay giúp đỡ cho những người sa
cơ thất thế, chúng tôi làm hết sức mình trong điều kiện cho phép. Hơn nữa vượt
biên theo tôi không phải là cái tội, họ chỉ trốn thoát chế độ không phù hợp với
họ, không chống cự, không phản đối, thì không thể bảo họ mang tội. Trường hợp
của anh khác với những người kia, khác như thế nào sau nầy anh sẽ rõ. Đêm nay
có một chuyến vượt biên uy tín mà tôi tin tưởng, tôi muốn gửi anh đi trong
chuyến nầy, mười một giờ sẽ có người tới dẫn anh đi. Tôi đã chuẩn bị sẵn cho
anh mọi thứ, gồm có hai bộ quần áo để anh thay đổi khi tới nơi, và một lượng
vàng cho anh tiêu dùng trong thời gian chờ định cư đến nước thứ ba.”
Anh trố mắt nhìn Thầy
mà không nói nên lời, anh đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác. Không biết
lý do gì mà Thầy tận tình giúp đỡ anh như vậy. Thầy bảo anh về phòng nằm nghỉ,
chờ đến giờ có người tới đưa đi. Thầy không cho anh nói một lời nào dù là lời
cám ơn. Thầy lên chánh điện tụng kinh. Anh nằm suy nghĩ mãi về sự giúp dỡ nầy
của Thầy. Một lượng vàng là một tài sản không nhỏ vào thời điểm đó. Thế mà Thầy
lại biếu anh, chưa kể Thầy còn phải đóng tiền cho chủ ghe để được đi, chứ không
ai cho đi không. Anh thắc mắc sao lại có một người tốt như vậy. Anh hứa với
lòng mình, sau khi An cư Lạc nghiệp ở xứ người, anh trở về thăm thầy, anh hỏi
thầy lý do tại sao thầy đã giúp đỡ anh. Anh nghĩ sẽ hoàn trả lại số vàng bằng
gấp bao nhiêu lần mà Thầy đã chi phí cho anh. Thầy nói chùa đã từng che chở cho
những người vượt biên bị bể, đã đưa họ về nhà, đó là một việc làm tốt, một công
đức cao cả mà chỉ có Bồ Tát mới hành xử như vậy. Vì biết bao nhiêu hệ lụy sẽ
gây rắc rối cho chùa và cho Thầy nếu chính quyền biết được. Ấy vậy mà Thầy
chẳng sợ gì. Niềm tin nào đã làm cho Thầy hành động một cách liều lĩnh như thế.
Sống giữa một xã hội mà người dân chỉ còn cách trốn ra nước ngoài mới yên thân,
thì còn sợ chi chuyện bắt bớ. Tuy nhiên ở trường hợp của Thầy lại khác, Thầy
đứng ngoài mọi liên hệ với những người chạy trốn, mà lại dang tay ra đỡ cho họ
khỏi bị tù tội. Còn hoàn cảnh của anh được Thầy che chở rồi lại tìm cách đưa đi
tiếp. Qua sự việc nầy, Thầy đã tạo cho anh một niềm tin vào cuộc đời, vẫn còn
có người đầy lòng nhân ái.
Anh nằm trong phòng
không nhắm mắt được. Anh nghe tiếng tụng kinh của thầy ngoài chính điện, giọng
thầy trầm bổng uy nghi, gieo vào lòng anh một thức tỉnh và suy tư. Anh chưa bao
giờ nghe được những lời kinh có uy quyền, thấm đẫm vào lòng anh một cách sâu
xa, xoa dịu những nhọc nhằn căng thẳng mà anh đã từng gánh chịu. Anh suy nghĩ,
đây mới chính là nơi Phật hiện diện. Không cần chi chùa phải lớn, phải nguy
nga. Chính ngôi chùa nhỏ bé nầy, ở một nơi hẻo lánh mà đã chứa lực đại hùng của
Phật, sáng tỏa trong lòng anh sự từ bi mà bây giờ anh mới ngộ ra được. Người
anh lâng lâng như đang bước vào một cõi tâm thức, tiếng kinh như thinh lặng,
đôi lúc dìu dặt, đôi lúc khoan thai, có phải chăng đang dìu anh ra khơi trong
êm ả, một chuyến đi mà anh không còn mang nỗi sợ. Rồi anh thiếp đi lúc nào
không hay.
Gần mười một giờ đêm,
Thầy vào gọi anh dậy. Thầy trao cho anh cái bọc nylon chứa hai bộ quần áo và
một lượng vàng. Thầy bảo anh cẩn thận cất vàng vào túi quần sau cài nút lại.
Trong bọc nylon có một lá thư, Thầy dặn khi lên ghe lớn hãy đọc. Nếu trường hợp
bị Công An phát hiện, bằng mọi cách phải hủy lá thư trước. Thầy đứng ngay cửa
nhìn anh ra khỏi chùa. Người dẫn đường đưa anh ra ghe nhỏ cách đó chừng nửa
giờ. Trên ghe có khoảng mười người, rồi ghe chạy ra sông cái tấp vào ghe lớn
đang chờ sẵn. Khi leo lên ghe anh làm rớt bọc Nylon xuống sông không vớt lên
được. Như vậy lá thư và hai bộ áo quần mất từ đó.
Đúng như lời Thầy nói,
chuyến đi rất an toàn, hai ngày sau tới Hồng Kông. Anh đổi lượng vàng ra thành
10 chỉ, để tiêu dùng trong những ngày sống ở trại tị nạn. Anh tiện tặn vì không
biết chờ đợi đến bao lâu mới đi định cư ở nước thứ ba. Anh may mắn được phái
đoàn Mỹ phỏng vấn và cho đi sớm. Một gia đình người Mỹ ở Oakland California làm
sponsor cho anh. Lúc đó Oakland chưa có người Việt nhiều, thành phố toàn người
Mỹ đen và Mễ. Dần dần những năm sau người Việt tới định cư và những quán Café
mọc lên ở đường E.14. Chính ở đây là nơi truyền những tin tức từ Việt Nam qua,
chuyện bàn luận Chính trị bắt đầu sôi nổi trên bàn Café của những chính khách
không tên tuổi. Đúng, sai không ai cần biết, có cãi vả với nhau khi bất đồng,
nhưng tất cả đều bỏ lại bàn, không ai mang trong lòng. Đó là niềm vui duy nhất
của mỗi cuối tuần cho những người Việt tha hương sinh sống trong Thành phố. Anh
share phòng với một gia đình Việt Nam, ăn uống anh tự túc nấu lấy, nên tiết
kiệm thêm một ít tiền. Anh viết thư bảo vợ thỉnh thoảng qua chùa Mân Thái cúng
Phật và thăm Thầy Trụ Trì. Anh cho chị biết, Thầy là ân nhân của anh và gia
đình, chị phải thay anh thăm viếng Thầy thường xuyên.
Sau khi có quốc tịch
Hoa Kỳ, anh làm hồ sơ bảo lãnh vợ con. Anh thu xếp một chuyến về Việt Nam, để
trước hết thăm Thầy, sau đó hỏi về lý do Thầy đã tận tình giúp anh. Một thắc
mắc cứ canh cánh trong lòng khiến anh trăn trở mãi. Thầy thường che chở cho những
người vượt biên, nhưng Thầy chưa bao giờ nói là đã giúp ai phương tiện và vật
chất để họ tiếp tục đi như anh. Thăm viếng gia đình, bà con hang xóm xong, anh
đón xe đi Mân Thái thăm Thầy. Chùa vẫn y nguyên như xưa, như những ngày anh
sống dưới sự bảo bọc của Thầy. Anh gặp vị sư trẻ, vị sư nầy nhận ra anh ngay.
Thầy nhìn anh, đôi mắt Thầy sáng lên đầy ngạc nhiên và vui mừng. Anh chạy đến
ôm Thầy, anh cảm thấy sung sướng, nước mắt ràn rụa. Thầy mời anh ngồi trên
chiếc bàn ăn ngày nào. Anh tình thật thưa với Thầy là lúc hối hả leo lên tàu
lớn trong đêm tối, anh đánh rơi bọc Nylon có lá thư và hai bộ áo quần Thầy cho,
nên đến bây giờ anh vẫn không biết trong thư Thầy viết gì. Thầy cười hiền hòa
và nói trong thư căn dặn anh phải giữ gìn sức khỏe, luôn luôn nghĩ tới vợ con,
chứ không có gì quan trọng. Thế nhưng anh không nghĩ như vậy, có một điều gì bí
mật mà Thầy chưa tiện nói ra.
Anh ở lại chùa vài
ngày để trò chuyện với Thầy, luôn tiện anh xin Thầy cho anh quy y. Thầy đồng ý.
Thế là mỗi đêm, khi Thầy tụng kinh anh cũng chắp tay ngồi phía sau, vừa nghe
câu kinh Thầy tụng vừa thấy lòng mình lắng xuống, như ngộ ra được một cái gì đó
rất tâm linh mà không thể nào diễn tả được. Mỗi lần tụng xong câu kinh Thầy gõ
một tiếng chuông, rồi cúi xuống lạy. Tiếng chuông ngân vang trong đầu anh, như
dẫn dắt anh bước vào sâu thẳm của cõi siêu hình. Dạy cho ta những đạo đức để
giữ mình, để sống với tha nhân. Anh cảm thấy những ngày ở chùa tuy ngắn ngủi
nhưng anh đã học được nhiều điều quý giá. Một buổi tối sau khi ăn cơm xong, Thầy
và anh ngồi uống trà nói chuyện. Thầy nhìn thẳng vào mắt anh, rồi từ từ nói :
- “Chắc anh thắc mắc
trong lòng bấy lâu nay, là tại sao tôi tận tình giúp anh, tiếp tay làm tròn ước
nguyện mong muốn của anh là vượt thoát ra khỏi đất nước. Chẳng qua đó là cái ơn
mà tôi phải trả cho anh trong thời kỳ chinh chiến. Có lần anh đã giúp tôi mà
anh tuyệt nhiên không hay biết. Bây giờ tôi xin kể đầu dây mối nhợ của câu
chuyện. Anh không còn nhớ, nhưng với tôi chuyện gặp anh lúc đó tôi không bao
giờ quên được. Trước khi nhắc lại chuyện cũ, Tôi xin nói về tôi. Tôi có vợ và
hai con, hồi đó gia đình chúng tôi sống trong vùng mất an ninh. Tôi hoạt động
Cách mạng và làm đến chức Huyện Ủy Viên. Vợ con tôi chết trên chuyến đò tiếp tế
bị máy bay phát hiện, từ đó tôi là người không có gia đình. Tôi được cấp trên
giao cho nhiệm vụ hoạt động trong vùng Hòa Vang và Điện Bàn. Để dễ dàng đi lại,
tôi giả làm một nhà sư mặc áo nâu sòng, trên vai luôn luôn mang cái bị chuông
mõ, nhưng thực tế trong đó chứa những tài liệu hoạt động và một khẩu súng ngắn.
Tôi tránh đi lại ban ngày vì sợ dễ bị phát giác. Thường di chuyển vào lúc mặt
trời sụp tối và Du kích địa phương báo trước cho tôi biết đoạn đường nào an
toàn để đi.
Buổi chiều tôi nhận
được lệnh là sáng hôm sau tôi có một cuộc họp với thượng cấp tại xã Thanh
Trường, huyện Điện Bàn. Tôi và hai cận vệ yên tâm ra đi, người cận vệ đi đầu bi
đau bụng nên ngồi lại đi cầu, như vậy tôi trở thành người đi đầu. Đi được một
đoạn thì tôi bị một toán lính Quốc Gia phát hiện, người đi phía sau tôi núp vào
bụi cây nên thoát được. Tôi được dẫn vào trình diện ông Trung úy Đại đội trưởng,
người Chỉ huy cuộc hành quân đó. Tôi nghĩ trong bụng, tôi không thể nào thoát
được lần nầy, thế nào họ cũng xét người và chiếc bị mang trên vai, đầy tài liệu
và cây súng ngắn trong đó... Dưới ánh đèn nho nhỏ, ông Trung úy ngước lên nhìn
tôi với khuôn mặt hiền từ, hỏi tôi một câu cho lấy lệ : “Thầy đi đâu trong đêm
tối ? Thầy có biết vùng nầy nguy hiểm lắm không ?” Tôi thưa với ông rằng : “Xóm
trên có người mới mất, tôi đến tụng kinh rồi ra về. Không ngờ trời sụp tối mau
vậy.” Người lính đứng gần hỏi ông Trung úy có cần xét ông thầy nầy không ? Ông
Trung úy nói khỏi cần, rồi sai người lính trải Poncho cho thầy ngủ lại, sáng
mai hãy về, chứ đi trong đêm thế nào cũng bị bắn. Tôi nghĩ lúc đó có người
khuất mặt che chở cho tôi nên họ không xét người tôi. Sáng hôm sau thức dậy,
ông Trung úy đưa cho tôi một ca nước trà, rồi tôi lên đường. Suốt trên đoạn
đường đi, tôi suy nghĩ mãi về ông Trung úy. Điều gì đã làm cho ông cư xử với
tôi như vậy ? Ông có biết rằng trong đêm đó tôi có thể giết ông rồi bỏ chạy,
giữa đêm khuya tối mịt làm sao bắn trúng tôi ? Ai đã khiến tôi, ngăn cản tôi
không làm điều đó. Trong chiến tranh không từ nan bất cứ thủ đoạn nào, giết
người không một chút cắn rứt. Nhưng giữa anh và tôi, hai kẻ thù gặp nhau ở điểm
“lòng nhân ái”, không biết nó đã tiềm ẩn trong người tự lúc nào mà khi nó tỉnh
dậy lại vào lúc đúng nhất. Từ đêm đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về tâm linh, chiếc
áo nâu sòng tôi đang mặc, phải có cái duyên tôi mới khoác nó lên người. Trong
những năm cuối cùng chiến tranh chiếc áo như đã che chở cho tôi tránh những lằn
tên mũi đạn. Tôi nguyện trong lòng, sau khi cuộc chiến chấm dứt, thế nào tôi
cũng tìm gặp anh. Ánh mắt và khuôn mặt anh không làm sao tôi quên được. Anh đã
cứu tôi không những tại mặt trận, mà còn cứu tôi ra khỏi vũng lầy của sự hận
thù. Tôi luôn luôn âm thầm cầu nguyện cho anh thoát khỏi mọi tai ương. Cái đêm
anh bước vào chùa, khi anh ngước lên nhìn tôi, cũng ánh mắt ấy cách đây hơn
mười năm giống hệt nhau. Tôi giật mình, ân nhân năm xưa bây giờ đã đến, tôi có
bổn phận phải giúp anh, phải đưa anh thoát khỏi nghịch cảnh mà anh và gia đình
gánh chịu. Bây giờ anh đã hiểu rồi chứ ? Đây là cơ hội cho tôi trả lại anh món
nợ cũ. Điểu làm tôi suy nghĩ mãi là cơ duyên nào đưa anh tới đây ? Có phải
chăng ơn trên đã dẫn dắt anh. Trong cuộc sống thiên hình vạn trạng, rất hiếm có
trường hợp giống nhau. Thế mà chúng ta lại rơi đúng vào sự trùng hợp nầy một
cách bất ngờ."
Anh sững sờ nhìn Thầy,
một câu chuyện mà anh không hề nghĩ đến, cho đến bây giờ Thầy nhắc. Đúng là
trường hợp hi hữu, tất cả đều có sự sắp xếp của ơn trên. Ký ức anh bắt đầu quay
về khoảng không gian mười năm trước đây :
“Hồi đó đơn vị anh
hành quân ở khu vực Miếu Bông, sát Quốc lộ 1, giữa đường từ Đà Nẵng vào Vĩnh
Điện. Gần 6 giờ chiều, anh được lệnh di chuyển vào khu vực xã Hòa Lân gần một
con lộ đá từ Non Nước vào Hội An. Chính sự di chuyển nầy đánh lạc hướng du kích
địa phương và những liên lạc viên, vì họ không ngờ đơn vị của anh di chuyển ban
đêm. Ông Huyện ủy viên tưởng rằng không có lính Quốc gia hành quân, nên ông mới
đi trên lộ trình nầy. Khi ông bị lính chận lại, ông rất ngạc nhiên tại sao một
cuộc hành quân như vậy mà du kích không phát giác được. Chỉ huy Đại đội đóng
gần cái miểu, anh treo chiếc võng bên ngoài, định nằm nghỉ thì người lính gác
dẫn một ông thầy chùa vào trình diện. Anh ngước nhìn thấy ông thầy chùa cũng
lớn tuổi, con người khắc khổ tội nghiệp. Anh không nghi ngờ gì cả, bảo ông nghỉ
lại đây cho an toàn rồi ngày mai về sớm. Đi trong đêm nguy hiểm vì có thể gặp
đơn vị Quốc gia khác đi kích, lúc đó khó tránh khỏi rắc rối. Đơn giản là như
vậy, chứ anh hoàn toàn không có ý nghĩ gì khác, hoặc nghi ngờ ông thầy chùa là
Việt Cộng. Sáng hôm sau khi ông thầy chùa đi rồi, thì anh mới tự hỏi tại sao
mình không lục xét ông thầy, biết đâu ông là Việt Cộng thì sao ? Giữa thời buổi
chiến tranh bất cứ ai cũng có thể nghi ngờ. Nghĩ như vậy, nhưng anh không cho
lính chạy theo gọi ông trở lại. Chuyện nầy anh cũng lãng quên, bây giờ Thầy
nhắc anh mới nhớ lại.”
Anh nhìn Thầy, nhưng
hoàn toàn không còn nhớ khuôn mặt. Càng nghĩ anh càng cảm thấy sự màu nhiệm của
đức tin, có thể biến đổi được con người, xoa dịu những vết thương tưởng chừng
như không bao giờ xóa đi được. Anh lặng người để tâm hồn lắng xuống, nhìn Thầy
như cảm nhận có được một luồng hùng lực tỏa sáng. Khuôn mặt Thầy hiền từ, ăn
nói chậm rãi, từ tốn. Anh thấy, Thầy hoàn toàn lột xác. Thường thường chính trị
viên nào cũng ăn nói lưu loát, cứng rắn, họ là những người nắm sinh mạng của
đơn vị, đẩy những chiến binh dưới quyền mình vào chỗ dầu sôi lửa bỏng. Bây giờ
lời Thầy có một hấp lực mang đến sự an lành cho mọi người. Ôi, tất cả đều nằm
trong nghiệp số.
- Thưa Thầy, thế thì
lúc nào Thầy mới chính thức bước vào đường tu hành ?
Thầy nhìn anh cười.
Bây giờ anh mới để ý nụ cười của Thầy hiền lành, đúng là một bậc chân tu :
- Sau 30 tháng 4 năm
1975, khi quân Cách mạng hoàn toàn chiếm Miền Nam, cũng vào ngày đó tôi chính
thức đi tu. Những bạn bè cũ cùng chiến đấu với tôi rất ngạc nhiên. Lúc được
hưởng những sung sướng nhất, giàu sang nhất, tôi lại chọn lấy con đường cực khổ
nhất. Tôi trả lại tất cả những chức vụ, đảng viên, những quyền hành v.v... chỉ
xin một điều, hãy để cho tôi yên, đừng quấy phá làm phiền tôi. Những ai đến
thăm chùa, những ai ngụ trong chùa xin các người đừng gây rắc rối cho họ. Những
ngày tôi theo Cách mạng, hy sinh cả vợ con, sự cống hiến của tôi đã đủ. Bây giờ
cho tôi yên phận trong tuổi già. Tôi nghĩ chỉ có con đường nầy mới giải thoát
được tôi, vợ con tôi dưới suối vàng cũng mĩm cười. Lúc đầu họ không chịu, nhưng
tôi quyết liệt quá, họ đành phải chìu ý tôi. Họ bảo tôi lãnh đạo Phật Giáo
tỉnh, tôi từ chối. Tôi muốn làm một người tu hành đúng nghĩa nhất. Không lợi
dụng chiếc áo cà-sa nữa, vì tôi đã lợi dụng nó quá nhiều trong thời chiến tranh
để che đỡ mình.
Lúc đầu khi về chùa
tôi thỉnh một bộ kinh và sắm chuông mõ, tôi tự trồng trọt để nuôi thân. Dân địa
phương họ biết tôi trước đây hoạt động cho quân Giải Phóng nên họ rất e dè, ít
người lui tới. Dần dần người nầy truyền đạt cho người kia về tôi, họ thấy tôi
không nguy hiểm mà trái lại rất dễ thương. Từ đó chùa có một sinh khí mới, buổi
tối ai rãnh thì đến chùa tụng kinh với tôi. Đạo hữu họ cũng biết chùa che chở
cho nhiều người trốn thoát Công An, họ cho đó là việc làm đúng. Công An họ tin
rằng tôi là một đảng viên, không thể chấp chứa những thành phần phản động.
Nhưng họ không ngờ rằng tôi bây giờ đã hoàn toàn lột xác, tất cả đều là anh em,
không thù không oán. Chính vì vậy chùa đã bao che cho những người vượt biển
trốn tại đây.
- Thưa Thầy, chùa nầy
đã có trước đây hay mới làm và người đệ tử theo Thầy từ lúc nào ?
- Chùa nầy trước đây
là chùa hoang, nằm trong vùng oanh kích tự do nên không ai dám lui tới. Làng
mạc tiêu điều, dân làng ra Thành phố tỵ nạn tránh bom đạn, chùa không còn ai
hương khói. Chỉ có tượng Phật lành lặn, còn tất cả đều bị đạn bắn phá. Chính
điều nầy cũng làm cho tôi bao nhiêu đêm suy nghĩ, tượng Phật không hề hấn gì
cũng lạ thật. Những năm cuối cuộc chiến, tôi ngủ dưới bệ tượng Phật, tôi cảm
thấy an tâm, hình như có một cái gì đó che chở cho tôi. Tôi nguyện trong lòng,
sau khi đất nước hòa bình, tôi sẽ về đây tu bổ lại ngôi chùa và sinh sống. Nếu
gặp được phước duyên tôi sẽ đi tu, gia đình vợ con không còn nữa, chẳng còn chỗ
nào làm nơi nương tựa. Trong thời chiến tôi lấy nơi đây làm nơi cư ngụ và hoạt
động. Sau nầy, như mong ước, tôi tu bổ dần dần trở thành một ngôi chùa tuy
không lớn, nhưng đạo hữu đến cũng khá đông. Tôi dự định sang năm đủ tiền, sẽ
xây lại lớn hơn, để những người con Phật có nơi khang trang hành lễ trong những
ngày Vía lớn. Người Thầy trẻ phụ giúp tôi trong chùa, lúc thầy đến mới 10 tuổi,
cha mẹ thất lạc lúc chạy loạn. Thấy tội nghiệp tôi nuôi nấng cho ăn học. Bây
giờ thầy đã là Kỹ sư công nghệ. Tôi bảo thầy có thể ra đời lấy vợ, vì chuyện ở
chùa chỉ là hoàn cảnh bức bách lúc đó. Thầy bảo là con quyết tâm tu hành theo
chân sư phụ. Thôi biết đâu cũng là cơ duyên. Tôi không bao giờ sai bảo thầy nhỏ
những gì mà tôi có thể làm được, thầy thấy tôi làm việc nầy thì thầy làm việc
khác, từ xưa đến giờ trở thành một nề nếp. Cách đây hai năm cha mẹ của thầy trẻ
từ nước ngoài về tìm thầy. Khi họ lạc nhau thầy đã 10 tuổi nên thầy dễ dàng
nhận ra cha mẹ. Cha mẹ sẽ bảo lãnh cho thầy đi, nhưng thầy vẫn chưa quyết định.
Tôi có khuyên thầy nên đi, dù sao tình ruột thịt cũng cần thiết hơn. Tôi nghĩ
thế nào thầy trẻ cũng rời khỏi chùa, nên tôi đang tìm một người sau nầy sẽ thay
tôi. Cái khó không phải là không có người, mà người thay thế tôi có được lòng
bà con, có siêng năng tu tập, có đủ nghị lực để quán xuyến ngôi chùa không. Và
điều quan trọng nhất là đừng để chùa biến thành công cụ phụng sự Chính trị.
Nhiều đêm suy nghĩ nhưng chưa tìm được người như vậy. Thật tình thì có lo lắng
cũng không được. Thôi thì cứ để mọi chuyện từ từ, người nào có Phật duyên tự
nhiên sẽ đến.
Bây giờ tôi già rồi,
những việc nặng nhọc không làm được, người đệ tử của tôi quán xuyến hết. Hơn
nữa đạo hữu cũng khá nhiều, mỗi ngày có vài người đến chùa làm công quả, nên
tôi có thì giờ nghỉ ngơi, chỉ lo Phật sự. Tôi tự tu hành, học trong kinh sách
của Phật dạy. Phần nhiều kinh sách viết bằng chữ Hán nên đã gây cho tôi khó
khăn lúc ban đầu.
Mặc dù Thầy không đi
tu từ nhỏ, nhưng quyết tâm cố gắng của Thầy, kiên trì học hỏi của Thầy, đã tạo
cho Thầy một con người thông hiểu giáo lý nhà Phật, có một kiến thức rộng. Thầy
không có một vị sư đỡ đầu, trong Phật Giáo gọi người nầy là Thầy Bổn Sư, nên
khi gặp những rắc rối liên quan đến sự tu hành, Thầy tìm đến những cao tăng xin
chỉ dạy. Mỗi tháng hai lần, ngày mồng Một và ngày Rằm, Thầy thuyết giảng để đạo
hữu hiểu những điều Phật dạy, để sửa mình, để tu thân. Chính quyền tại đây biết
rõ về Thầy nên không ai đến quấy rầy. Vì vậy Thầy yên tâm tu hành. Từ khi chính
thức bước vào cửa chùa, Thầy không quan tâm đến sự việc bên ngoài. Tiếng tăm
của Thầy dần dần được những Phật tử quanh vùng biết đến và từ đó sinh hoạt Phật
sự trong chùa trở nên nhộn nhịp hơn. Có người đề nghị với Thầy nên trùng tu lại
ngôi chùa cho phù hợp với số đạo hữu ngày càng gia tăng. Thầy nhận biết điều
nầy, nhưng Thầy không dám kêu gọi đóng góp. Thầy cố tiện tặn để dành nhưng vẫn
chưa đủ tiền thực hiện.
Một buổi sáng trong
lúc uống trà, anh đặt một bọc tiền trên cái khay nhỏ, rồi thưa với Thầy :
- Thưa Thầy, đây là số
tiền con dành dụm từ lâu, con hứa khi về quê nhà con sẽ nhờ Thầy dùng nó để làm
việc gì mà Thầy cảm thấy cần thiết phải làm. Con không nghĩ là trả lại cái ơn
mà Thầy đã giúp, vì ơn nầy to lớn quá con không trả nỗi. Con thấy Chùa hư hại
quá nhiều, Thầy cho con góp một tay với Thầy xây dựng lại tốt hơn. Nếu có thiếu
hụt trong lúc trùng tu, con sẽ gửi về thêm để Thầy trang trải.
Thầy nhìn anh, Thầy cảm
thấy như anh trả lại món nợ trước đây Thầy đã giúp anh vượt biên, nhưng khi
nghe anh trình bày thành thật. Thầy trầm tư, đắn đo có nên nhận của anh hay
không ? Cuối cùng Thầy quyết định :
- Lòng tốt của anh
Thầy ghi nhận. Tuy chùa cũng rất cần, nhưng nhận số tiền nầy của anh Thầy cảm
thấy áy náy quá. Thôi thì thay mặt chùa, Thầy cám ơn anh. Thầy sẽ nhờ người vẽ
kiểu rồi từ từ thực hiện theo đó. Làm cho đến khi nào hết tiền thì ngưng, có
tiền làm tiếp. Ngày xưa các vị sư tổ xây chùa từ đời nầy qua đời khác, không có
ai xây chùa chỉ một đời. Lấy kinh nghiệm nầy, Thầy sẽ thực hiện cho đến khi nào
Thầy không còn khả năng.
Thầy và anh bàn nhiều
chuyện, trong đó để tiết kiệm tiền bạc, Thầy định làm một lò nung gạch, đào đất
trước sân chùa để làm gạch. Cái hố lấy đất sau nầy sẽ trồng sen, trở thành một
hồ sen. Thấy những dự tính của Thầy hợp lý, anh cũng vui thích.
Trở lại Mỹ, mỗi đêm
anh ngồi trước bàn thờ tụng kinh. Lúc đầu anh không biết tụng kinh như vậy để
làm gì, sau vài tháng anh ngộ ra được một điều cái “quả” mà anh nhận được bây
giờ, gia đình yên vui, vợ con sẽ đoàn tụ, công việc trôi chảy, chính nhờ vào
cái “nhân” mà anh đã gieo. Anh tụng kinh là nhắc nhở mình phải luôn luôn gìn
giữ cái tâm ngay thẳng. Anh không nghĩ đến những chuyện cao siêu, chỉ biết đơn
giản là tu thân tích đức. Anh cảm thấy tâm hồn anh thanh thản hơn, bỏ ra ngoài
những hệ lụy rắc rối không mang tới niềm vui cho mình, cho mọi người. Câu kinh
anh tụng trở nên nhiệm màu.
Comments
Post a Comment