Dưới cánh Đại Bàng Bồng Sơn.
DƯỚI CÁNH ĐẠI BÀNG Mx Hoa Biển
Left to Right người thứ 2 Bồng Sơn, thứ 3 Thiếu úy Phạm Hữu Huê- tức Mx Hoa Biển
Left to Right người thứ 2 Bồng Sơn, thứ 3 Thiếu úy Phạm Hữu Huê- tức Mx Hoa Biển
Một ngày thật bất ngờ vì
không hẹn trước, hai vợ chồng lữ khách thong thả ngồi chờ trong ngôi nhà người
chiến hữu cùng đơn vị ngày trước.Đây là thành phố Stockton, California. Chúng
tôi, hai vợ chồng mới tìm đến được ông chăm chú nhìn qua khung cửa sổ từ
khi bước xuống xe. Người lữ khách ngày ấy là một vị chỉ huy chiến trường chưa từng
trực diện, chỉ nghe biết qua máy truyền tin và cái thoáng nhìn vội vã khi ẩn
khi hiện khi tôi đang được đua ra khỏi vùng chiến cuộc lúc bị thương: Bồng Sơn!
Những năm tháng dài tiếp nối
đi qua trong cuộc đời với nhiều ấn tượng do ngững nghiệt ngã thương đau người
thua cuộc. Đói, lạnh,cùn chân giữa núi rừng bao la Thanh Hóa và Bình Điền cùng
những thách đố của cái thời gian đàng đẳng làm xóa mờ nhiều ký ức cuộc đời.
Quên để nhớ trong cái cảnh vượt gian khổ tìm tự thắng để trường tồn, nhưng ký ức
không xóa nhòa hình ảnh cuối cùng của trận chiến mà vị chỉ huy như một đại bàng
tung đôi cánh đồng hiệp lực, tiếp vũ dũng cho đơn vị khi đang ở thế đối đầu.Có
thể nào có được buổi gặp mặt trong cảnh ly tan của đất nước từ khi giả từ vũ
khí! Nhưng lại có một ngày:
Trích nhật ký.....
Thứ Năm, ngày 22 tháng 3 năm
2007
Gặp gỡ các sĩ quan trong tiểu
đoàn 1 Quái Điểu tại Stockton CA, người chỉ huy hành quân ngỡ ngàng không nhận
ra mình. Ông ta bắt tay và oang oang cái giọng trầm rất quen từ rất sâu trong
quá khứ, nặng âm sắc quen thuộc miền Trung:
"A! Phạm Huệ đây rồi, hồi
mới về đơn vị, xem tướng tá coi được, tôi gởi ra đại đội 3 của trung úy Lê Châu
Khai. Sao lúc nầy già quá! mới 56 tuổi- Tôi nhớ rõ từ lúc trình diện
hành quân cho đến khi nằm trên băng ca, ngực ra máu, ướt đẫm chiếc áo trận."
Tôi thì thầm cám ơn "cái
ngày ấy"
Ông bảo: Đó là nhiệm vụ, nhiều
khi đi lấy xác một chiến sĩ mà phải bõ.năm, ba mạng là chuyện thường.
32 năm sau cuộc chiến, ông vẫn
còn phông độ, vẫn còn nhanh nhẹn như là đặc ân trời cho riêng.
-Trong gia đình, ông vẫn còn ảnh
hưởng phong cách ra lệnh khi dạy dỗ, sai bảo con cái.
Tôi bênh vực"Chúng tôi học
lãnh đạo chỉ huy, tinh thần quân sự là phải chấp hành, sự sống và sự chết của
đơn vị đều tùy thuộc vào sự tiên liệu của người sĩ quan...Được có người chồng,
người cha vốn là tinh hoa của đất nước thời chinh chiến là một vinh dự lớn lao
đó."
Sau cuộc chiến, ông trở về vẹn
toàn thân thể, Phú Sĩ, Hồng Hà đều còn dấu vết cuộc chiến trên cơ thể như sự
không vẹn toàn hay viên kẹo đồng còn nằm lỳ trong ngực để có những cơn đau
nhức vào mỗi khi đổi mùa...
Nhân đọc được bài hồi ký
Tháng Tư Ra Trường-Hoa Biển do một cựu thiếu sinh quân ở Cali đọc được và chuyển
lại, từ Chicago, ILL. Cựu Thiếu Tá Bùi Bổn, tiểu đoàn phó TĐ1/TQLC đã tìm về Stockton-California
để thăm lại những sĩ quan của một góc chiến trường xưa. Võ Phúc, Ngô Chi, Hữu
Huế, những chàng sỉ quan trẻ trung của đơn vị ngày nào đều có mặt. Khi được
nhìn lại vị chỉ huy đơn vị tài ba lẫm liệt của mình ngày trước, mọi người đều
không khỏi xúc động khi nhìn thấy mái tóc bạc và dáng dấp bình dân của anh
với những lời nhắn nhủ:
–Ở thời điểm tổ quốc nguy
biến mà các em vẫn hiên ngang ra chiến trường trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, cho
dù chỉ vỏn vẻn một tuần lể, nhưng tinh thần của các em rực sáng như những ánh
sao. Đây là những vết son trong quân sử và là niềm tự hào của quân trường nơi
các em xuất thân. Hãy nuôi dưỡng tinh thần và ý chí nầy..và lúc nào cũng phải
biết nhớ tới những người thương phế binh Việt Nam Cọng Hòa, họ đã chiến đấu và
hy sinh cho đất nước nhưng đang hứng chịu những bất hạnh và thiệt thòi..
-----------------------------------------
Tháng 9 năm 2014..
Đón đường ông trên đường đến
dự họp mặt kỷ niệm 50 năm nhập khóa tại nam Cali, Bồng Sơn cười vang
trong máy:
-Chấm đúng điểm đứng rồi, sắp
đến nhà hàng. Chỉ có lúc nầy rảnh, giờ khác thì quá bận bịu. Sao khỏe không Hồng
Hà?
--Báo đại bàng, đông tây nam
bắc đều ở vị trí sẳn sàng. Đang đợi lệnh hành quân!
Ông tâm sự bằng một giọng nói
chậm, rõ như từ trái tim ra:
--Vào những ngày cuối của cuộc
chiến, khi chỉ huy mặt trận đông bắc quanh huấn khu Long Thành,anh không có
nhìn xa về tình hình chính trị khi có những toan tính, tháo chạy của cấp
lãnh đạo mà cứ siết chặt,tiến công hơn thế thủ nên hao quân nhiều quá.
Anh muốn biết tinh thần, tâm tư của anh em chiến hữu lúc đó ra sao..
Những trang nhật ký rời...
.
Như món nợ ân tình cho Huế về
nỗi tang thương Mậu Thân 68, những đứa con đất Thần Kinh vốn chất chứa cả trời
tâm sự quê hương trong lòng như Lê Sơn, Lê Quang Thông, Trần Đại Đãi, Ngô Chi,
Phạm Hữu Huê… đều một lần dấn thân vào binh chủng Thủy Quân Lục Chiến và dù
không trọn vẹn trên bước hành trình, nhưng cũng từ trái tim mong được đáp đền
chút gì với đất mẹ thân yêu.
Được tham chiến vào trận đánh
sinh tử cuối cùng, đơn vị với truyền thống bất khuất đã kiên cường chống trả và
cầm cự cho đến những giờ phút sau cùng thì tôi ngã xuống. Bộ đồ trận chưa một lần
thay do thế trận quá căng thẳng với đêm ngày không giảm cường độ ướt mèm vì
máu. Ngày 30 tháng 4 năm 75 khi vừa được tải thương đến bệnh viện sư đoàn thủy
TQLC Lê Hữu Sanh thì nghe lệnh đầu hàng trên đài phát thanh Sài Gòn. Khi thoát
ra khỏi căn cứ thì may mắn gặp thằng bạn đời ở đại đội C hiện đang nghỉ phép ở
Ngã Tư Hàng Xanh. Mới cách mấy ngày mà nay thành một thương binh đi không được
mà đứng cũng không làm thằng bạn lựng khựng nhìn trân trối. Vết thương ở phổi
nên khó thở và mệt lắm nên người bạn Trần Văn Thanh phải rất kiên nhẫn lắm khi
dìu đi tìm bệnh viện thí để băng bó. Biết rõ cơn nhức nhối hành hạ cơ thể trong
cảnh cô đơn, lạc lõng không người thân, không đơn vị với gia tài võn vẹn một bộ
đồ xanh quân y viện, người bạn kiên trì từng bước từng bước một mà hành trình
là một vòng Sài Gòn từ cầu xa lộ đến nhà thương Bình Dân qua khu Thị Nghè nơi
có bệnh viện Grall để tìm cách chữa trị và vô trùng vết thương. Viên đạn cách một
lóng tay cạnh tim nên không chết lền như các sĩ quan cùng đơn vị Nguyễn N Thành
VB28, Hoàng Minh Sinh VB 29. Ngô Chi ở BCH tiểu đoàn theo dõi từng phút trên
máy PRC 25, chờ tin dữ vì biết bạn mình đang chiến đấu với tăng T54 Việt Cọng.
Gần bốn mươi năm sau vật đổi sao dời vẫn một câu:
—–Nếu như mày chết đi trong
trận đó thì tuyệt quá vì tao sẽ có mãi một thần tượng để tôn sùng. Mày ra đi
hiên ngang, vào nơi lửa đạn mà chấp nhận bỏ hết và đúng là những người trẻ cuối
cùng vào cuộc chiến. Tao chờ tin mày từng giây và mày chết sẽ là bất tử trong
tao!!!!!
Ngày 22 tháng 4 năm 1975, đại
tá chỉ huy trưởng TDHCTCT Đà Lạt ưu ái cho các tân sĩ quan khóa NT4 hai ngày
phép thăm thân nhân trước khi ra đơn vị. Ông thật nhân đức và quá ân tình với
những đứa con học trò nên linh hoạt tạo dịp cho các tân sĩ quan một nghĩa cử
như món quà tiển biệt! Về lại Sài Gòn trong cơn hấp hối, phố xá vẫn đông người
do từ các nơi ngoài Trung chạy loạn và dồn về. Trong dòng người xuôi ngược tất
tả đó, Ngô Chi và tôi như bóng với hình lững thững những bước chân lặng lẽ trên
hè phố, lòng buồn rười rượi vì mất liên lạc với gia đình và người thân ngoài miền
Trung. Sài Gòn những ngày cuối-thành phố vội vã trong sinh hoạt, trên mỗi sắc mặt
đều thoáng vẻ ưu tư, bồn chồn lo lắng và đợi chờ một cái gì sẽ đến. Các
quán xá, tửu lầu vẫn rộng mở mà đa số dân nhà binh là khách chính. Hai đứa
ngang qua khu Brodard sang trọng, cố mở tầm mắt như thu nhận lần cuối hình ảnh
hào nhoáng, kiêu kỳ của Sài Gòn hoa lệ vào ký ức với một linh tính khó có một lần
thứ hai. Bên trong cửa kính quán cà phê thấy những người bạn mình như Nguyễn
Văn Lân BCND, Trần Đại Đãi, Lê Quang Thông TQLC mà mới hôm qua hiền lành, đơn
sơ nay oai vệ, vũ dũng những bộ đồ tác chiến rằn ri hoa biển với chiếc mũ bê rê
màu xanh lục. Họ trầm ngâm bên những tách cà phê, thú vị đưa từng giọt đắng vào
người, tận hưởng những dư vị hạnh phúc của nguyên lý có-không, thực-ảo, đến-đi,
hạnh phúc-khổ đau của tuổi trẻ hai mươi thời chiến. Bên hông quán thấy nhà thơ
Khuê Việt Trường là NT4 Phan Huy Trạm, đúng tựa cửa và đang nỉ non với người
yêu như những lời tình tự cuối trước cuộc chia tay kẻ sắp lâm trận.
Cũng dun dủi tình cờ mà cả
hai chúng tôi gặp lại người con gái xứ đạo Thanh Bồ Đà Nẳng đang tả tơi sau
chuyến hành trình trên biển khơi từ ngoài trung vào vì lánh nạn Cọng Sản khi
thành phố thất thủ ngày 29 tháng 3 năm 1975. Như Lan, gốc Văn Khoa Huế mến mộ mấy
chàng alpha trong đợt phép thường niên đầu năm 1975 của các SVSQ NT4 và
níu kết như có duyên nợ tự thuở nào. Khi chia tay nơi phi trường Đà nẳng để về
lại trường, tôi thấy em đứng đơn côi giữa một rừng quân màu áo hoa dù nơi bãi
tiếp vận cung ứng nhân lực,đạn dược cho chiến trường Thượng Đức. Em chơi vơi ngấn
lệ, không cất nổi cánh tay vẫy chào như là lần cuối tiển người đi khi tiếng động
cơ chiếc C130 gầm rú khởi động để sẳn sàng cất cánh lên bầu trời, hướng về Đà Lạt.
Tình yêu thời chiến nóng bỏng và vội vàng nhưng thơ mộng do ngày mai sẽ đến như
thế nào mà ai có biết. Nay gặp lại Như Lan nơi Sài Gòn tất bật rộn ràng đầy người
chạy loạn, em như con mèo ốm, xác xơ và yếu đuối giương đôi mắt lo lắng
tìm che chở:
-Anh hãy ra khơi với gia đình
em chiều nay bằng chính con tàu Giã của ba em (Tàu đánh cá). Tất cả đã chuẩn bị
rồi, mình rời khỏi đây đi anh!
Trong phút chốc, hành trình từ
những ngày nhập cuộc hiện về. Hai năm sáu tháng với hai trăm lẻ chín người cùng
dấn thân cho một chí hướng qua bao mùa thao trường mồ hôi đổ. Những miệt mài
tôi luyện bên giảng đường, bên bãi tập quân sự để mong có ngày được phục vụ cho
đất nước mình bằng kiến thức, nhiệt tình, bằng lý tưởng. Hai mùa mưa nắng trên
đồi núi Đà Lạt, những cây thông già làm chứng nhân kỷ niệm qua bao lớp người đi
mãi mãi vi vu theo gió tựa như nhắc nhở, như thì thầm giấc mộng chinh nhân các
anh đi. Cái tự hào được làm người lính hiện dịch suốt đời phục vụ lý tưởng quốc
gia đã làm tôi như mê man, đan tâm tránh lối loài hoa nở bên đường để tìm đến
chốn lửa đạn. Gia đình đang bặt tin ngoài Huế mà quê hương miền Nam đang ở những
giờ phút sinh tử thì làm sao mà dứt bỏ cho đành.Vân vê chiếc bông mai mới toanh
trên ve áo, tôi ân cần:
- Như Lan hãy theo gia đình
ra khơi đi. Anh không đi và quyết ở lại. Anh yêu con đường anh đi!
Giã từ Sài Gòn, giã từ đồng
môn và bè bạn, giã từ người tình bé bỏng yếu đuối với cánh tay không vẩy được
lúc chia tay. Sáng 24 tháng 4 năm 1975 theo đoàn người ra đi, chúng tôi lên đường
ra đơn vị. Theo nhu cầu khẩn cấp của cuộc chiến, mỗi chúng tôi đến khu vực hành
quân cùng ngày.
Long Thành. Vào ngày 28
tháng tư năm 1975,quân Cọng Sản quyết chọc thủng phòng tuyến Đông Bắc hướng về
Sài Gòn thì găp sức kháng cự mãnh liệt của quân ta. Các sĩ quan khóa 28, 29 Võ
Bị và khóa 4 CTCT/HD vừa mãn khóa tham chiến rất đông trong đơn vị Thủy Quân Lục
Chiến tại chiến trường nầy.
Trận chiến kéo dài cho đến
chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975 thì hai bên nổ lớn ra tại ngã ba huấn khu
Long Thành. Các chiến sĩ cọp biển đã chiến đấu rất kiên cường trong một thế trận
cam go nhưng cô đơn không được yểm trợ. Đại đội 2 của trung úy Thánh trãi
quân hình dọc, đối diện trường Thiết Giáp Long Thành nối tay với đại đội 3 của
trung úy Lê châu Khai làm hình cánh cung bao quanh rừng cao su nằm chếch
phía phải từ vọng gác lối chính dẫn vào trường bộ binh.Khoảng 6 giờ chiều thì
hai bên thấy nhau. Xe tăng hai phía tác xạ qua lại nhịp nhàng y lời qua tiếng lại.
Tiếng súng trường M16 nổ ran như pháo chuột bên cạnh những tiếng gầm rú vang trời
của tăng M48 và T54 đang bắn trả lẫn nhau.Sự bố trí lực lượng thế thủ của ta
trước sự tiến quân của địch chính xác gần như trăm phần trăm. Sau khi tải
thương một trung đội trưởng bạn bị pháo găm vào bọng đái khi đang đứng chỉ huy
một cách gan lì thì chỉ giây lát sau, ĐĐT tiếp tục bị thương khi đang điều
máy ở ngay trong hố .Một mãnh đạn pháo chém vào lưng, máu tuôn nhiều làm anh chỉ
biết nhìn lo lắng cho đơn vị, tuyệt đối không nói được một lời nào cho đến khi
tải thương đi.Đơn vị chỉ còn mình tôi là sĩ quan và chuyện gì đến thì phải đến.
Cũng may thay, tần số liên lạc rất rõ, Bồng Sơn dẫn dắt " vô cùng
kiên nhẫn" từng lời, cả bằng bạch văn vì chưa đủ thời gian làm quen ngụy
âm. Ông khuyến khích giữ con cái, cố gắngđừng bị bể tuyến và giữ chặt "tuyệt
đối" hai con cua sắt . Trong khói súng tôi cười liều vẩy tay chào anh chuẩn
úy kỵ binh trẻ măng đang đứng chỉ huy trên xe như lời dặn dò ngầm.
Chiếc M48 hùng hục thụt lui, thụt tới quay súng tác xạ như nhảy đầm. Phe ta mặc cho tăng hai bên quần thảo,mỗi chiến sĩ yên vị dưới hố trong khi Bồng Sơn tiếp nhắc đốc thúc con cái và mở hết chốt an toàn trên súng M72. Pháo tháp trên tăng của ta mỗi lần vuốt một cái là một cây cao su ngã đẹp nên xạ trường rất quang đãng. Lúc nầy cái miệng đắng nghét, nuốt nước bọt muốn chợt cổ mà bộ áo quần cứ tự ướt rồi tự khô và cũng quên hẳn là mình chưa ăn từ lúc nào đến giờ mà không biết đói. Đến giờ nầy trời bắt đầu tối, tôi nghe tiếng gầm rú như thét và làn khói đen xịt mịt mù, chiếc M48 súng hướng nòng đại bác về phía địch nhưng lại phóng ngược đắng sau xa khỏi vòng đai. Tôi cùng người lính giương súng M72 đòi bắn thì xe hãm đà và ngoan ngoãn trở lại vị trí.Trên sắc mặt anh em đang tái đi bổng dần lấy lại tinh thần.
Chiếc M48 hùng hục thụt lui, thụt tới quay súng tác xạ như nhảy đầm. Phe ta mặc cho tăng hai bên quần thảo,mỗi chiến sĩ yên vị dưới hố trong khi Bồng Sơn tiếp nhắc đốc thúc con cái và mở hết chốt an toàn trên súng M72. Pháo tháp trên tăng của ta mỗi lần vuốt một cái là một cây cao su ngã đẹp nên xạ trường rất quang đãng. Lúc nầy cái miệng đắng nghét, nuốt nước bọt muốn chợt cổ mà bộ áo quần cứ tự ướt rồi tự khô và cũng quên hẳn là mình chưa ăn từ lúc nào đến giờ mà không biết đói. Đến giờ nầy trời bắt đầu tối, tôi nghe tiếng gầm rú như thét và làn khói đen xịt mịt mù, chiếc M48 súng hướng nòng đại bác về phía địch nhưng lại phóng ngược đắng sau xa khỏi vòng đai. Tôi cùng người lính giương súng M72 đòi bắn thì xe hãm đà và ngoan ngoãn trở lại vị trí.Trên sắc mặt anh em đang tái đi bổng dần lấy lại tinh thần.
Một ngày thật dài như không
muốn qua đi với trận chiến đầu đời của một sĩ quan non nớt, chưa có kinh nghiệm
chiến trường. Khi lửa, đạn, thuốc súng bao quanh và đồng đội ngã xuống thì đôi
chân bổng nhẹ hều và làm khói thuốc như sương mai để tiếp nhận việc gì sẽ đến.
Ai từng qua thời chinh chiến ở cảnh tử sinh với làn ranh mỏng manh sẽ thấy
nét thực ảo quanh mình để rồi sau đó trân quý vô vàn những gì có được. Mãi mê
chỉ huy và quyết đến được một hồi chung cuộc thì ngã xuống. Giữa tuyến đầu khi
tăng địch gầm rú, lính thu mình cố thủ trong thế trận chín mất một còn
thì lúc ấy cũng còn chợt nghĩ tới: Thôi rồi- Phú dâng!
Nhưng đại bàng bay đến, tha về.
Trong cơn đau quằn quại, thấy một chiến hữu áo trận , nón sắt, súng dài-
một hình ảnh bình thường như các chiến binh khác, nhưng đây ông chen vào lửa đạn,
đem thân vào chốn hiểm nguy nhất mà ông có quyền từ chối vì áp lực địch, vì đêm
đen, vì lanh...gáy....Trên con đường lộ nằm giữa rừng cao su dẫn vào cổng trường
Bộ Binh có năm mươi hai chiến sĩ vĩnh viễn nằm lại nơi đây khi đơn vị rút về
phía Long Bình vào sáng 29 tháng 4 năm 1975. Một chiến sĩ sống sót lúc nằm lại
đã an táng tập thể những anh hùng vô danh nầy cạnh những gốc cây cao su mà nay
2014 những ngôi nhà tập thể lại xây dựng lên bên trên. Ba mươi sáu năm vật đổi
sao dời, những đồng đội sống sót quá xót xa thương khóc bạn , nhiều người trở về
chiến trường xưa tìm dấu tích…
Nơi đây, chiến trường xưa--rừng
cao su ngã ba Thái Lan, Long Thành...4/1975
“Bồng Sơn. TĐP/TĐ1 bổ sung thêm một vài chi tiết, không chỉ địch tấn
công ĐĐ2 mà tấn công toàn tuyến phòng thủ của cánh B/TĐ1 gồm ĐĐ1, ĐĐ3 và
ĐĐ2 phòng thủ hàng ngang. Thiệt hại của ĐĐ3 rất nặng, ĐĐT/ĐĐ3 bị thương và một
số TB và Tữ Sĩ được tải thương ra khỏi trận điạ, ĐĐ3 chỉ còn 1 SQ khoá 4/ĐHCTCT
Thiếu Uý Phạm Hữu Huê được chỉ định nắm ĐĐ3, BCH/Cánh A đóng tại dốc 47 nhưng
BCH/Cánh B đóng ngay tại Ngã 3 Thái Lan, chạng vạng tối 29, bị chiến xa địch tiến
dọc theo QLộ 15, bắn nát BCH/CB, BS may mắn thoá chết vì đã lên trám tuyến của
ĐĐ3 khi Th/Úy Huê bị bắn thủng ngực đang thoi thóp chờ chết, 2 cận vệ của BS
tan xác vì chưa theo kịp BS thì đã bị đaị bác 100mm trên T54 bắn chết bù lại
chiếc T54 này bị ĐĐ1 cuả Tr/Úy Bình bắn cháy, để rõ hơn xin tìm đọc hồi ký
Tháng Tư Ra Trường của Th/Úy Huê, người mà may mắn sống sót khi BS đã kịp thời
tải thương trong Tạp Chí Ức Trai của TĐHCTCT để hiểu thêm nhữnh khóc liệt của
trận đánh cuối cùng của TĐ1/QĐ/TQLC nói riêng và QLVNCH nói chung, lăng kính để
nhìn một trận đánh đưới góc độ nó tùy thuộc vào vị trí, cấp bậc và chức vụ
nhưng tưu ̣ chung sự chiến đấu kiên cường của các Quái Điểu đã thể hiện
lòng can đãm và tinh thần bất khuất cùng sự hy sinh vô bờ bến của QLVNCH.”
Thiếu Tá Buì Bổn TĐP/TĐ1/QĐ/TQLC,
người trực tiếp chỉ huy trận đánh cuối cùng này.(Trích DĐ Mũ Xanh)
Khi chiếc xe tải thương
từ tuyến đầu lủi vào bộ chỉ huy tiêu đoàn1/TQLC giữa tiếng pháo đạn tơi bời,
thiếu úy Ngô Chi nhìn thấy tôi trên chiếc băng ca bê bết máu, mếu máo nói:
–Huế ơi, tao nhìn thấy mầy rồi.
Mầy về tới đây là tao mừng quá! Mới mấy ngày từ lúc mầy ra đại đội, tao trông
tin mầy lắm. Qua máy truyền tin, tao biết đơn vị mầy đang đụng nặng .
Vết thương ở ngực, cạnh trái
tim làm tôi khó thở, y tá chiến trường đã băng bó, nhưng máu vẫn còn ra nhiều
quá, lại thêm khi tải thương, pháo và đạn AT7 chống tăng nổ dồn dập trên đường
đi khiến hai người lính dìu vai hãi quá, hất té ngã nhào nhiều lần. Đau đớn,
tôi chỉ biết nhìn lờ mờ, nhưng cảm nhận được những gì Ngô Chi kể lể:
–Mầy vậy là sống, nếu như mai
nầy được chuyễn về bệnh viện Lê Hữu Sanh, hãy cố tìm liên lạc em tao là
Ngô Từ, đơn-vị Quân Tiếp Vụ SĐ7 và cho nó biết đã gặp tao ở giờ nầy như thế nầy
và mạ tao sẽ biết tin con. Sắp tới đây chưa biết sống chết như thế nào.
Ngô Chi đặt băng ca tôi vào một
góc hầm và trở về nhiệm vụ. Tôi hướng mắt phía trên, vòm trời lóe sáng từng chặp,
đạn lân tinh nổ dòn và rực sáng như những vòng hoa lộng lẫy song song với những
tiếng nổ kinh hoàng của đủ loại đạn pháo, cối, đại bác của hai phe đang kịch
chiến. Tôi cố sức để nhắm mắt, cố ru ngủ quên bớt đau nhưng không được vì vết
thương hành dữ quá
Thấp thoáng trong hơi mờ thuốc súng, tôi thấy một người con gái đẹp khác thường.
Với sắc áo rằn-ri, mới thoạt nhìn trông rất oai dũng, nhưng nét thùy mị thanh
tao sau những bước chân dịu dàng nữ tính với mái tóc dài buông xõa vẫn hiện rõ
dáng-dấp anh thư đầy quyến rũ. Ngô Chi cho biết đây là người yêu của thiếu úy
Võ Phúc, đại đội trưởng chỉ huy và cô đang là sinh-viên văn khoa Sài Gòn. Dẫu
biết đất nước đang hồi dầu dôi lửa bỏng và thấy cảnh chiến trường cao độ, muốn
san sẻ hiểm nguy và dâng hiến hạnh phúc tình yêu cho người thương ở những lúc
bom đạn vô tình và sự sống chết cận kề, cô xâm mình ra đơn vị, mặc
chung một màu áo trận, nằm giao thông hào và cũng cầm một cây súng M16 hướng về
phía địch như bao chiến sĩ cọp biển khác.Tình yêu như nhiệm mầu, thách đố
thương đau và hiểm nguy ở những khoảng khắc nầy ví tựa biển rộng sông dài. Võ
Phúc là con trai cả vị tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 Kình Ngư. Khi rời trường Thủ
Đức khóa 1/72, anh theo gót chân cha gia nhập gia đình cọp biển. Là lính
chiến, nhưng phong cách lịch lãm phong trần nên anh có cuộc tình tuyệt vời đến
lạ lùng. Anh em binh sĩ ở phòng tuyến, mỗi lần thấy cô đi ngang qua, nét hấp dẫn
và sự tươi cười đã cho anh em niềm vui lâng lâng thú vị khó tả, quên cả nỗi sợ.
Khi cô đi xa họ quay trở lại vùng chiến tuyến trước mặt, lòng tươi vui
cho dù mệnh hệ nào đến đi nữa. Đêm đến, bên ngoài căn hấm “hạnh phúc” của họ,
lính tráng tay cầm súng, miệng hát vang những câu ca tình yêu như lời chúc tụng
yêu thương giữa những tiếng nổ đang rền vang giữa đêm đen. Đôi uyên ương
không chết trong trận đánh cuối cùng nầy, nhưng sau đó khi vào tù, anh bị mất một
con mắt vì bị thương ở giờ phút cuối trước khi miền Nam sụp đổ, không được chửa
trị và người yêu anh đã đi xa từ khi anh vào trại cải tạo của quân thù. Họ
để lại cho nhau kỷ niệm một tình yêu tuyệt vời như cuộc đời có một thời để yêu
và một thời để chết.
Cuối năm 1991, mười sáu năm
sau ngày đất nước ly tan, bạn bè và những người xưa cũ gặp nhau trên xứ tự do.
Cùng điểm đến nhưng khác biệt riêng rẽ vào mỗi hành trình. Đến bây giờ vẫn thấy
rằng những năm tháng nơi trường Mẹ đã dày hun đúc chí trai để biết đặt tình yêu
tổ quốc lên trên bản thân và gia đình. Những người ở lại, những đồng ngũ không
bỏ anh em, bè bạn và đã trung thành với cuộc chiến như một sứ mệnh phải nối tiếp
và hoàn thành. Bốn, năm, sáu năm hay hơn nữa cho mỗi Sinh Viên Sĩ Quan về bản
án vô hình tù tội mà giặc thù áp đặt cho người cán bộ nồng cốt của quân lực
VNCH rồi cũng chỉ là sương gió khi chí khí và nỗi căm hờn giặc thù vẫn còn. Nơi
đây, Hoa Kỳ, người xưa của 1975 theo năm tháng, cũng nhạt nhòa theo bước thời
gian , vẫn một mực thầm kín niềm nuối tiếc đã chưa cho nhau được những gì mình
có …. Người nay mới tới thì hành trang như từ đất sang trời, từ địa ngục đến
thiên đàng mà những đọa đày đầy thù hận do tù đày, kinh tế mới , do rập rình cô
lập của từng lời nói, cử chỉ từ đời cha đến đời con mà nay lại thành là những
vun xới tươi tốt cho trái tim thêm đậm đà nhân bản.
Có những trưa hè bên trong
cánh rừng Như Xuân Thanh Hóa là khi tiếng vượn rừng thôi hú nhường cho tiếng
chim ca giữa ngàn cây trong một không gian có đà tiến hóa chạy ngược, những
chàng trai alpha đen của một thuở hào hoa lịch lãm đang đói meo nằm nghỉ trưa
trên tấm vạt giường bằng cây rừng trong căn nhà vách thưng, mái bằng nứa của
nhà tù cải tạo Như Xuân, Sông Mực .Đôi lần khi lên rừng khai hoang, chặt hạ được
gặp các đại bàng vẫn đầy tràn tư cách đàn anh như Phạm Cang, Lê
quang Liễn....Nhìn những đứa em như Lập, Cầu , Vĩnh Tháp K28, Huê, Chi NT4 đang
trầm trồ khen bộ râu quai nón đẹp oai từ bẩm sinh, MX Phạm văn Tiền, nói
trong thổn thức:
-Mấy anh có ăn có chịu, tội mấy
em mới ra trường vội mà chịu đòn nặng quá.
Tuy sống như thời đồ đá,
nhưng thỉnh thoảng lại nghe được tiếng đàn ghi ta cổ điển réo rắc của VB Phan
văn Phát K25,cựu phi công A37. Âm thanh ngút ngàn, thánh thót của một kỷ thuật
tây ban cầm siêu đẳng như đẩy lùi lại vào quá khứ nơi một dĩ vãng có đủ tình
yêu tuổi trẻ và những dấu ấn cuộc đời. Tù nhân có những phút giây được quên thực
tại, được thú vị với nỗi hạnh phúc vô hình . Đầu gối tay lim dim mộng mơ trong
căn lán một ngày chủ nhật không lao động ở giữa khu rừng già Như Xuân Thanh
Hóa, khi nghe độc tấu với ngọn đàn réo rắc hết mức chịu đựng bản Romeo& Juliette”..Những
mối duyên đầu, thường gây khổ đau, lòng khóc thầm…Vì phút chia ly chợt đến như
mây sầu đông. Giây phút ban đầu, ngày ta gặp nhau, mắt môi thầm trao , những
câu ân tình, biết bao là âu yếm …” thì bạn đời Ngô Chi hỏi:
-Mi có tiếc không? Hồi đó sao
không theo em Như Lan xuống thuyền sang Mỹ?
-Phải đợi xong một hơi thuốc
lào mới trả lời được.
Cơn phê sau một hơi ém dài
làm tôi lảo đảo, quay cuồng quên cả thực tại. Thú hạnh phúc “đắm say” một bi ba
số tám ai chưa một lần thì chưa biết tới. Khi nhịp tim đập lại bình thường, tai
hết ù và nước mắt bớt nhễ nhãi, nỗi xúc động của ngày tháng cũ lại về:
-Ai cũng có một tình yêu tổ
quốc, một tình yêu dân tộc và dĩ nhiên ai cũng có một cuộc đời đáng sống. Cái
quý hóa là quân trường Mẹ đã tôi luyện để chuyển hóa mình biết yêu và đặt tình
yêu đất nước lên trên, trên cả những cuộc tình của những chàng trai thế hệ…. Thật
khó phai mờ hình ảnh sáng ngày 24 tháng 4 năm 1975, đúng giờ chia tay khi đoàn
quân xa TQLC nổ máy chở tân sĩ quan lên đường tại cổng TĐ 50 CTCT, Thiếu Úy
Nguyễn Ngọc Vịnh ( TĐ 1) dứt nhẹ tay người tình đang bịn rịn quyến luyến níu
kéo và vụt chạy về phía những người bạn mình đang ở trên xe ra đơn vị dù biết
cuộc chiến ở giờ thứ 25. Trên những chiếc GMC của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến,
có những người trai theo tiếng gọi của tình yêu tổ quốc đang trên đường ra đơn
vị.
Sacramento 22/11/2014
Cảm ơn MX Hoa Biển. Không ngăn được giòng nước mắt khi nghỉ đến cuộc chiến và tình yêu trong khi cuộc đời chiến binh nỗ trôi bồng bềnh theo vận nước.
ReplyDelete