Việt cộng bán nước cho Tàu cộng như thế nào?
Bí mật động trời: VC bán nước cách nào cho Tầu Cộng!
Giám
Đốc Trung Quốc Sự Vụ của Viện Pháp-Á tiết lộ động trời: Hồ Chí Minh và
Ðảng CSVN đã bán nước Việt cho Trung Quốc như thế nào?
LGT.- Tác
giả Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ hiện là Bác Sĩ Giám Đốc Trung Quốc Sự Vụ
tại Viện Pháp-Á (IFA), Thành Viên trong Y Sĩ Đoàn Pháp Quốc. Ông là
người cầm bút nổi tiếng trước và sau năm 1975, đã ấn hành được hơn 100
ngàn trang sách về lịch sử và y học. Sự kiện Đảng CSVN đã hiến đất dâng
biển cho Trung Quốc ra sao. Bí mật của vụ này đã được Bác Sĩ Trần Ðại Sỹ
trình bày trong Bản Ðiều Trần trước cơ quan IFA và được Saigon HD Radio
trích đoạn các phần quan trọng sau đây:
Bác
sĩ/Tác giả Trần Đại Sỹ hội ngộ cùng 3 cựu Sĩ Quan Võ Bị Dalat tại
Dallas (Texas) ngày 26 tháng 5 năm 2012. Hình từ trái qua phải: Thi văn
sĩ Quốc Nam (Khóa 22 VB), Dr. Trần Đại Sỹ, cựu Trung Tá Nguyễn Quang
Vinh (Khoá 14 VB), và cựu Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình-Tuy
Nguyễn Ngọc Ánh (Khóa 16 VB).
Bản điều trần nêu lên nhiều chi tiết đau lòng. Theo BS Trần Ðại Sỹ, "Vụ cắt đất ký ngày 30-12-1999 thì
tôi được biết tin chi tiết do hai ký giả Trung-quốc là bạn với tôi
thông báo vào ngày 9-1-2000 nghĩa là 10 ngày sau, hai anh thuật, theo
tinh thần bản hiệp định thì:Việt-Nam nhường cho Trung-quốc dọc theo
biên giới 789 cây số vuông (chứ không phải 720 như tin lộ ra trong nước)
thuộc hai tỉnh Cao-bằng, Lạng-sơn".
Trong
khi đó, Bộ Giao Thông CSVN lặng lẽ sơn lại các cọc cây số và Bộ Ngoại
Giao CSVN cũng lặng lẽ lên trang web sửa thành câu văn mới: "lãnh thổ Việt-Nam khởi từ cây số không ở phía Bắc".
Lý do, theo BS Sỹ, vì "Cái cây số không đó là cây số 5 cũ đấỵ.
Cột cây số Zéro bây giờ ở phía Nam cột Zéro cũ 5 cây số. Từ cây số Zéro đến cây số 5 nay thuộc Trung-quốc".
Các phần quan trọng trong bản văn ghi như sau:
Bí ẩn về việc đảng CSVN, Lãnh đạo nhà nước cắt lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc
Bản điều trần của Yên-tử cư-sĩ TrầnÐại Sỹ
Dr. Trần Ðại-Sỹ, 5, place Félix Éboué 75012 PARIS, FRANCE.
LGT:
Trong mấy tháng gần đây, nội địa Việt-Nam cũng như hải ngoại đều rúng
động vì tin nhà nước hay nói đúng hơn là đảng Cộng-sản Việt-Nam đã
nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc.Ðau đớn nhất là địa danh lịch
sử Nam-quan đi vào tâm tư là niềm tự hào của tộc Việt nay đã ở trong
lãnh thổ Trung-quốc.
Ngay
cả hang Pak-bo là thánh địa của đảng Cộng-sản, trước kia ở cách biên
giới Hoa-Việt trên 50 km, nay đứng ở đây gần như nhìn vào lãnh thổ
Trung-quốc. Trong suốt 25 năm qua, Bác-sĩ TrầnÐại-Sỹ vì ký khế ước làm
việc với Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (CEP) và Ủy-ban trao đổi y
học Pháp-hoa (CMFC), trong đó có điều căn bản là "không được viết, được
thuật những gì với báo chí về Trung-quốc, Việt-Nam hiện tại; không được
tham gia các đoàn thể chính trị chống đối Trung-quốc, Việt-Nam" nên
không bao giờ ông tiết lộ bất cứ điều gì mắt thấy tai nghe trong những
lần công tác tại Trung-quốc hay Việt-Nam. Tuy nhiên, ông đã được một cơ
quan (chúng tôi giấu tên) triệu hồi để điều trần về vụ này. Theo luật lệ
hiện hành mà Bác-sĩ Trần phải tuân theo, rất mong các vị đứng đầu
CEP-CMFC thông cảm với chúng tôị (IFA).
Kính thưa Ngài ... Kính thưa Quý Ngài, Kính thưa ông Giám-đốc... Kính thưa Quý-liệt-vị,
Thực
là hân hạnh, khi mới ngày 17-3 vừa qua, chúng tôi được cử đến đây để
trình bầy những vụ việc đang diễn ra tại vùng Á-châu Thái-bình dương.
Hôm nay, chúng tôi lại được gửi tới trình bầy về diễn biến trong vụ việc
chính phủ Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-Nam (CHXHCNVN) cắt nhượng lãnh
thổ, lãnh hải cho Trung-hoa Nhân-dân Cộng-hòa quốc (THNDCHQ), gọi tắt
là Trung-quốc. Ðây là một việc cực kỳ tế nhị, cực kỳ khó khăn cho tôi,
làm thế nào giữ được tính chất vô tư vì:
- Thứ nhất, tôi gốc là người Việt,
hơn nữa thuộc giòng dõi một vị Vương đứng hàng đầu trong lịch sử Việt,
vì ngài thắng Mông-cổ liên tiếp trong ba lần vào thế kỷ thứ 13 mà nay
tôi phải nói về những người đem lãnh thổ Việt nhượng cho Trung-quốc, khó
mà diễn tả lời lẽ vô tư cho được.
- Thứ nhì, ngoài
chức vụ giáo-sư Y-khoa ra, tôi là một tiểu thuyết gia, đã viết trên
mười bốn nghìn trang, thuật huân công của các anh hùng tộc Việt trong
việc dựng nước, giữ nước mà suốt trong năm nghìn năm lịch sử, chỉ duy năm 1540, giặc Mạc Dăng-Dung cắt đất dâng cho triều Minh của Trung-quốc bị tộc Việt đời đời nguyền rủa. Vậy mà nay phải chứng kiến tận mắt lãnh thổ Việt bị cắt cho Trung-quốc.
- Thứ ba,
các sinh viên Việt-Nam muốn du học Pháp thường bị vài tổ chức đòi phí
khoản 20 nghìn USD mỗi đầu người. Một vị Ðại-sứ của Việt-Nam tại châu Âu
mời tôi về nước (tất cả chi phí do tiền của IFA) để giúp sinh viên
Việt-Nam du học Pháp. Với sự hướng dẫn của tôi, từ nay sinh viên muốn du
học Pháp, họ đã biết rất rõ những gì phải làm, những gì phải chứng
minh. Họ không phải tốn một đồng nào cả nhưng khi trở về Pháp, lúc lên
phi cơ tại phi trường Tân-sơn-nhất, tôi bị ba sĩ quan cao cấp của
Công-an chờ sẵn, hạch sách, khám xét trong khoảng 98 phút bằng những câu
hỏi có tính cách nhục mạ, ngớ ngẩn, lời lẽ cục súc. Tôi cho đây là một
hình thức khủng bố. Thưa Quý-vị, hôm đó tôi chỉ cười nhạt, khinh rẻ vì
tôi biết rất rõ kiến thức, mục đích của họ trong khi họ không đủ khả
năng bịa ra bất cứ tội gì để kết tội tôi. Hơn nữa, tôi giữ trong tay một
ủy nhiệm thư, theo Công-pháp Quốc-tế, họ không thể công khai vị
phạm.(1)
Ðứng trước vùng đất thiêng của tổ tiên, nay vĩnh viễn trở thành đất của người tự nhiên tôi bật lên tiếng khóc như trẻ con. Viên sĩ quan Công-an Trung-quốc tưởng tôi là người Hoa, anh ta hỏi:
- Tiên sinh có thân nhân tử trận trong dịp mình dạy bọn Nam-man bài học à?
Tôi lắc đầu, khóc tiếp, anh an ủi:
-
Thôi, người thân của Tiên-sinh đã hy sinh dưới cờ thực nhưng nay bọn
Nam-man đã dâng đất này tạ tội rồị, Tiên sinh chẳng nên thương tâm
nhiềụ.
Tôi
kiếm tảng đá ngồi ôm đầu khóc. Anh Công-an bỏ mặc tôị Khóc chán, tôi
trở sang Bằng-tường, kiếm một cơ sở mai táng (xây mộ, làm mộ chí). Tôi
mượn họ khắc trên một miếng đá bóng nhân tạo (granite) bài thơ bằng chữ
Hán như sau:
1.Thử địa cựu Nam-quan,
2.Biên địa ngã cố hương.
3.Kim thuộc Trung-quốc thổ,
4.Khấp, khốc, ký đoạn trường.
5.Lê Hoàn bại Quang-Nghĩa,
6.Thường Kiệt truy Bắc phương,
7.Hưng Ðạo đại sát Ðát,
8.Lê Lợi trảm Vương Thông.
9.Nam xâm, Càn-Long nhục,
10.Gươm hồng Bắc-bình vương.
11.Ngũ thiên niên dĩ tải,
12.Hoa, Việt lập dịch trường.
13.Mao, Hồ tình hữu nghị,
14.Nam, Bắc thần xỉ thương,
15.Huyết lệ vạn dân cốt,
16.Hồng-kỳ thích ô hoang.
Ðại-Việt vong quốc nhân Trần Ðại-Sỹ-Khốc đề lục nhật, cửu nguyệt, niên đại 2001.
Tôi
đem tảng đá này, gắn vào một vách núi ngay cạnh đường, trên độ cao
khoảng 2-3m. Công-an, cán bộ Trung-quốc xúm lại xem nhưng họ chỉ hiểu lơ
mơ ý trong thơ mà thôị - Xin tạm dịch:
1.(Ðất này xưa gọi Nam-quan,)
2.(Vốn là biên địa cố hương của mình.)
3.(Hiện nay là đất Trung-nguyên,)
4. (Khóc chảy máu mắt, đoạn trường ai hay)
5.(Vua Lê thắng Tống chỗ này,)
6.(Thường Kiệt rượt Tiết cả ngày lẫn đêm,)
7.(Thánh Trần sát Ðát liên miên,)
8.(Lê Lợi giết bọn Thành-sơn bên đồi,)
9.(Càn-Long chinh tiễu than ôi,)
10.(Quang-Trung truy sát muôn đời khó quên.)
11.(Năm nghìn năm cũ qua rồi,)
12.(Chợ biên giới lập, đời đời Việt-Hoạ)
13.(Ông Hồ kết bạn ông Mao,)
14.(Sao răng lại cắn, máu trào môi sưng.)
15. (Vạn dân xương trắng đầy đồng,)
16. (Ðể lại trên lá cờ Hồng vết nhơ)
(Người nước Ðại-Việt vong quốc tên TrầnÐại-Sỹ, khóc đề thơ
ngày 6 tháng 9 năm 2001)
--
Câu 5,. Vua Tống Triệu Quang-Nghĩa sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng sang đanh VN, bị vua Lê (Hoàn) đánh bạị
Câu
6, Năm 1076, vua Tống Thần-Tông sai bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân
sang đánhÐại-Việt, bị Thái-úy Lý Thường Kiệt đánh đuổị
Câu 8, Tước của Vương Thông là Thánh-sơn hầụ.
Câu 10, Vua Quang-Trung còn có tước phong là Bắc-bình vương.
Câu
14, Hồi 1947-1969 Chủ-tịch Trung-quốc là Mao Trạch Ðông, Chủ-tịch
Việt-Nam là Hồ Chí Minh kết thân với nhaụ Việt-Hoa ví như răng với môị.
Vì sợ môi hở răng lạnh nên ông Mao phải giúp ông Hồ- Năm 1979, Ðặng Tiểu
Bình đem quân tàn phá các tỉnh biên giới phía Bắc Việt-Nam, nên người
ta đổi câu trên thành: Răng cắn môi máu chảy ròng ròng.
- Tháng 9 vừa qua, Ðảng Cộng-sản Việt-Nam liệt tôi vào danh sách 80 người phản động nhất vì năm 1997 ,
tôi đã viết một bài tiết lộ những chi tiết tuyệt mật về cuộc viếng thăm
Trung-quốc của Tổng Bí-thư Ðỗ Mười, Thủ-tướng Võ Văn-Kiệt, nhất là cuộc
họp mật của hai nhân vật này với Chủ-tịch Trung-quốc Giang Trạch Dân.
Tôi viết dưới hình thức hài hước cho tờ báo Văn-nghệ Tiền-phong ở
Virginia, USA , số Xuân 1998. Nội dung của bài đó là một phần bài thuyết
trình của tôi với Quý-vị cuối năm 1997. Như Quý-vị biết về Cộng-sản,
khi họ kết tội ai phản động có nghĩa là toàn đảng phải dùng hết khả năng
tiêu trừ người ấỵ (2).
Ghi
chú (2) Tôi không tin chỉ với bài này mà họ kết tội tôi nặng như vậy.
Tôi biết rất rõ ai chủ trương, ai kết tội tôi nhưng tôi chưa muốn nói
ra.
Trong bài viết trên, tôi đã tiết lộ những điều tuyệt mật về cuộc hội đàm khiến họ sợ hãi mà thôi.
Ðiều tuyệt mật đó là vụ: ông Lê Ðức-Anh bị Trung-quốc đánh thuốc độc, bị bán thân bất toại rồi cũng do Trung-quốc trị cho. Nay tôi tiết lộ thêm những vụ đầu độc cùng một phương pháp:
- Cậu-Chó vì dính dáng đến vụ Trương Như Tảng, định dâng Việt-Nam cho Trung-quốc không thành rồi cũng được bán thân bất toại để bảo mật
- Trong kỳ đại hội Đảng 8, giữa đại hội, ông Lê Mai, Bộ-trưởng Ngoại-giao, ông Ðào Duy-Tùng ứng viên Tổng Bí-thư đảng Cộng-sản cũng bị hạ độc bằng cùng một phương thức nhưng tôi không biết ai đã làm công việc đó.
- Gần đây nhất một Bác-sĩ Việt-Nam từng dính dáng với phong trào Trương Như Tảng.
Sau đó, đã tỵ nạn lần thứ nhì sang Canada, năm trước đây, nghe tin
Bác-sĩ Dương Quỳnh-Hoa từ Việt-Nam qua Pháp, ông lén từ Canada sang
Paris gặp bà mưu kiếm ít xôi thịt từ Trung-quốc. Khi trở về Canada, ông cũng bị đột quỵ và tiêu dao miền Cực-lạc.
Kính thưa Quý-vị:
Tuy tôi đã tuyên thệ tại đây hồi tháng ba vừa qua nhưng hôm nay tôi xin tuyên thệ một lần nữa:
"Tôi
xin tuyên thệ với tất cả danh dự của tôi rằng: Tôi không thù, không
ghét những người tại Việt-Nam, họ đã nộp lãnh hải, lãnh thổ cho
Trung-quốc. Tôi cũng không vì lòng yêu nước Việt mà oán ghét họ. Tôi
không hận những người Việt chủ trương khủng bố tôi khi họ mời tôi về
Việt-Nam giúp đỡ họ. Những lời tôi trình bày hôm nay hoàn toàn vô tư".
Kính thưa Quý-vị
Tôi
vừa lướt qua vài nét đơn sơ về biên giới Hoa-Việt, về ngoại giao
Hoa-Việt trong thời gian 989 năm. Bây giờ tôi xin đi thẳng vào đầu đề
hôm nay về việc:
- Ðảng Lao-động Việt-Nam lãnh đạo nhà nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-hòa (VNDCCH, 1945-1975).
-
Ðảng Cộng-sản Việt-Nam lãnh đạo nhà nước Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa
Việt-Nam (CHXHCNVN, 1975-2001) nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-hoa
Nhân-dân Cộng-hòa quốc gọi tắt là Trung-quốc.
3. Vụ Việt-Nam dân chủ Cộng-hòa nhượng lãnh hải cho Trung-quốc.
3.1. Kết quả của văn kiện 14-9-1958.
Ngày 4-9-1958, chính phủ Trung-quốc tuyên cáo về lãnh hải 12 hải lý kể
từ đất liền của họ, có đính kèm bản đồ rất rõ ràng. Bản tuyên cáo này
chỉ có hai nước công nhận đó là VNDCCH và Bắc Cao (Cộng-hòa Nhân-dân
Triều-tiên). Việc VNDCCH công nhận như sau: Ngay khi nhận được bản tuyên
cáo do sứ quán Trung-quốc tại Hà-nội trao, Chủ-tịch Hồ Chí Minh triệu
tập Bộ Chính-trị đảng Lao-động Việt-Nam (tức đảng Cộng-sản Việt-Nam ẩn
danh). Trong buổi họp này, toàn thể các thành viên nhất trí chấp nhận
bản tuyên bố của Trung-quốc. Ngày 14-9-1958, Thủ-tướng Phạm Văn-Ðồng
tuân lệnh Chủ-tịch Hồ Chí-Minh, gửi văn thư cho Tổng-lý Quốc-vụ viện
Trung-quốc (Thủ-tướng) là Chu Ân-Lai, trong đó có đoạn (Văn thư đính kèm
1): những nước liên hệ tới bản tuyên bố là :
-
Trung-hoa Dân-quốc (Ðài-loan), - Nhật-bản, - Hoa-kỳ (hạm đội 7)), -
Phi-luật-tân, - Mã-lai, - Brunei, - Indonésia, - VNDCCH và Việt-Nam
Cộng-hòa (VNCH).
Thế
nhưng từ hồi đó đến nay, các nhà nghiên cứu Âu-Mỹ cho đến các nước
Á-châu Thái-bình-dương (ACTBD) không hề để ý đến văn thư trên.
Vì sao?
Bản
tuyên bố chỉ đọc trên hệ thống truyền thanh của Trung-quốc rồi cũng
được các báo Trung-quốc đăng lại mà không có bản đồ đính kèm.
Cả thế giời cứ nhìn trên bản đồ Trung-quốc cũng như vùng Nam-hải phân
định lãnh hải từ 1887 mà cho rằng: theo Quốc-tế công pháp thì lãnh hải
hầu hết các nước đều gồm 12 hải lý, kể từ thềm lục địa. Vụ Trung-quốc
tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của họ là một sự bình thường. Cái tưởng lầm
tai hại đó cho đến nay (11-2001), những người chống đối vụ nhường đất
cho Trung-quốc ở trong nội địa Việt-Nam cũng như hải ngoại chỉ kết tội
vu vơ, không rõ ràng, không chứng cớ vì nguyên do không bản đồ nàỵ.
Do
kết quả không có bản đồ đính kèm của Trung-quốc tuyên bố lãnh hải của
họ (gần như trọn vẹn vùng biển Nam-hải, đính kèm), Hoa-kỳ cũng như thế
giới không biết (hay không công nhận) nên suốt thời gian 1958-2001:
- Hạm đội 7 của Hoa-kỳ tuần hành trong vùng lãnh hải tuyên bố này, đầy đe dọa Trung-quốc mà Trung-quốc vẫn ngậm bồ hòn.
- Chiến hạm của Pháp, Ðức, Ý cũng như một số nước Úc, Âu trong thời gian 1975-1980 vẫn tuần hành, hộ tống những con tầu vớt người Việt trốn chạy trong vùng mà Trung-quốc đành im lặng.
Hôm nay tôi cần phải trình bày trước các vị và làm sáng tỏ nội vụ
Kính thưa Quý-vị,
3.2. những bí ẩn.
Cái bí ẩn đó không có gì lạ cả, rất rõ ràng, rất chi tiết.
-
Về phía các nhà nghiên-cứu Âu-Mỹ, ACTBD không có bản đồ đính kèm bản
tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung-quốc, họ cứ nhìn vào bản đồ đã phân
định từ 1887 giữa Pháp và triều Thanh. Họ cũng cứ nhìn bản đồ của các
nước vùng Nam-hải của Trung-quốc, của Trung-hoa Dân-quốc cũ rồi cho rằng
lãnh hải 12 hải lý thì chẳng có gì là lạ cả. Nhưng nếu họ có bản đồ về
lãnh thổ đính kèm bản tuyên bố thì họ sẽ toát mồ hôi ra vì
bản đồ này bao gồm toàn bộ các đảo trong vịnh Bắc-Việt, toàn bộ các đảo
ở biển Nam-hải như Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa).
Như vậy nếu tính lãnh hải 12 hải lý, tính từ các đảo này thì:
- lãnh hải Trung-quốc ở biển Nam-hải, phía Tây sẽ sát tới bờ biển suốt miền Trung, Bắc Việt-Nam.
- Phía Ðông sát tới lục địa Phi-luật-tân, Bruneị
- Phía Nam sát tới Indonésia, Mã-laị
Trở
lại với Chủ-tịch Hồ Chí-Minh, bộ Chính-trị đảng Lao-động (Cộng-sản)
Việt-Nam và chính phủ VNDCCH hồi 1958, khi các vị ấy có bản tuyên bố
lãnh hải của Trung-quốc thị cũng có bản đồ chi tiết nhưng các vị ấy gửi thư chấp nhận bản tuyên bố đó thì có nghĩa rằng:
Họ đồng ý nhường cho Trung-quốc toàn bộ:
- Các đảo của Việt-Nam trên biển Nam-hải.
- Toàn bộ lãnh hải Việt-Nam cách các đảo đó 12 hải lý nghĩa là toàn bộ biển Nam-hảị
Kính thưa Quý-vị,
3.3 - Bí ẩn vụ Trung-quốc chiếm Hoàng-sa (Tây-sa) .
Từ trước đến giờ, có nhiều vị hiện diện hôm nay từng đặt câu hỏi với tôi rằng:
- Tại sao năm 1973, thình lình Trung-quốc đem quân đánh quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) từ VNCH? Trận chiến diễn ra ngắn ngủi, phía Trung-quốc bị thiệt hại gấp ba VNCH(về
nhân mạng, về chiến hạm, tài liệu này tôi có từ phía Trung-quốc). Nhưng
VNCH vì quân ít, vũ khí chỉ có đại bác, chiến hạm nhỏ trong khi
Trung-quốc có hỏa tiễn địa địa, chiến hạm lớn đông gấp 3 lần VNCH. VNCH
lại đang có nội chiến, phải đương đầu với quân đội VNDCCH, vì vậy VNCH
phải bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng-sa- Bấy giờ Hoa-kỳ với VNCH có hiệp ước
hỗ tương an ninh, Hoa-kỳ đang tham chiến tại Việt-Nam, hạm đội 7 hùng
hậu đang tuần hành gần vùng giao chiến. Tại sao Hoa-kỳ không can thiệp, không lên tiếng bênh vực VNCH?
Nay tôi xin thưa:
Vì:
Trong-cuộc mật đàm giữa Hoa-kỳ (Kissinger) và Trung-quốc (Mao TrạchÐông), phía
Trung-quốc đã trao cho ông Kissinger bản tuyên bố lãnh hải 4-9-1958
cùng bản đồ, Ông Kissinger đã công nhận bản tuyên bố đó. Cho nên ông Kissinger vừa rời Trung-quốc thì Trung-quốc đem hạm đội xuống chiếm Hoàng-sa.
Vì:
Văn thư của ông Phạm Văn Ðồng công nhận quần đảo này là của Trung-quốc.Trung-quốc chiếm Hoàng-sa chỉ là việc chiếm lại lãnh thổ được hiến dâng, đã 16 năm bị VNCH xâm lăng.
- cũng có vị hỏi tôi rằng: Tại quần đảo Trường-sa (Nam-sa) hiện có quân của Trung-hoa Dân-quốc (Ðài-loan), Phi-luật-tân, Mã-lai, Việt-Nam. Thế sao hải quân Trung-quốc luôn khai hỏa vào hải quân Việt-Nam. Quan trọng nhất là trận chiến tháng 3 năm 1988, Việt-Nam chỉ phản đối lấy lệ.
Nay tôi xin thưa:
Do văn thư của ông Phạm Văn Ðồng công nhận quần đảo này là của Trung-quốc.
Lập luận phía Trung-quốc là: Thủ-tướng Phạm VănÐồng đã công nhận vùng
này là lãnh hải Trung-quốc, tại sao quân đội Việt-Nam còn hiện diện tại
đây? Như thế là Việt-Nam xâm phạm lãnh thổ Trung-quốc, Quân đội
Trung-quốc phải đánh đuổi quân xâm lăng, bảo vệ đất nước là lẽ thường.
Quân đội Ðài-loan đóng tại đây mà Trung-quốc không tấn công vì quân
Ðài-loan thì cũng là quân đội Trung-quốc đóng trên lãnh thổ Trung-quốc.
Còn Phi, Mã-lai với Trung-quốc đang tranh chấp trên quần đảo này chưa
ngã ngũ thì quân đội của họ hiện diện là lẽ thường. Trung-quốc không thể
tấn công họ vì như vậy là Trung-quốc ỷ lớn hiếp nhỏ.
Ðối
với vụ việc tranh chấp Trung-quốc, Việt-Nam trên đảo Trường-sa (Nam-sa)
đã giải quyết bằng văn thư của Việt-Nam ngày 14-9-1958. Chính vì lý do này mà Trung-quốc chỉ chấp nhận đàm phán về vùng đảo với từng nước mà không chịu đàm phán chung với tất cả các bên liên hệ có nghĩa là họ gạt Việt-Nam ra ngoài vì Việt-Nam đã công nhận các đảo này là của Trung-quốc.
3.5 - Về hoàn cảnh đảng Cộng-sản Việt-Nam năm 1958 và chính phủ VNDCCH.
Tất cả những vị trong bộ Chính-trị đảng Cộng-sản, trong Chính-phủ đều biết rằng:
-
Kể từ năm 1540, sau khi dâng đất cho Trung-quốc, giặc MạcÐăngÐung bị
lịch sử Việt-Nam kết tội, bị toàn dân nguyền rủa, đến bấy giờ trải 418
năm, chính họ cũng nguyền rủa bọn Mạc.
-
Giữa VNDCCH và Việt-Nam Cộng-hòa (VNCH), cả hai bên đều đang lo củng cố
xây dựng lại vùng đất của mình sau chiến tranh (1945-1954). Cả hai bên
cùng chưa chính thức gây hấn với nhau, VNDCCH không có ngoại thù.
- Trung-quốc không có chiến tranh với VNCDCH, không có áp lực ngoại xâm.
-
Năm 1958 là lúc thịnh thời nhất của Chủ-tịch Hồ Chí Minh, của Ðại-tướng
Võ Nguyên Giáp. Thời kỳ này, miền Bắc Việt Nam vừa trải qua cuộc Cải
cách ruộng đất, 246.578 người hầu hết là phú nông, địa chủ, trung nông,
các cựu đảng viên không phải của đảng Lao động (Cộng-sản), dân chúng...
bị giết. Nghĩa là toàn miền Bắc dân chúng kinh hoàng, cúi đầu răm rắp
tuân lệnh đảng, không còn kẻ nội thù,
-
Nhất là lúc ấy VNDCCH đang kéo cao cờ nghĩa đánh Pháp, chống Mỹ cứu
nước. Họ kết tội VNCH là Việt-gian, là Ngụy, họ phải hết sức giữ gìn để
khỏi mất chính nghĩa.
- Thế sao đảng Cộng-sản lại làm cái việc thân bại danh liệt, trở thành tội đồ muôn năm của tộc Việt?
-
Bàn về việc ký thỏa ước với nước ngoài, việc nhận đất, nhượng đất phải
thông qua Quốc-hội. Bấy giờ, VNDCCH cũng có Quốc-hội nhưng Quốc-hội
không được hỏi đến, không được bàn đến và nhất là không được thông tri.
Quốc dân cũng thế. Tất cả thắc mắc này, tôi xin để Qúy-vị suy đoán và
trả lời.
3.6 - Một câu hỏi được đặt ra:
Vậy
thì vì lý do gì mà đảng Cộng-sản Việt-Nam lãnh đạo Chính-phủ VNDCCH lại
nhượng lãnh hải cho Trung-quốc quá dễ dàng? Cho đến nay, tôi cũng không
tìm ra lý do thỏa đáng.
Tôi không tìm ra vì:
- Tất cả những vị trong bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam dự buổi hội quyết định nhượng lãnh hải đều đã từ trần. Các vị trong nội các Phạm Văn Ðồng hồi ấy, không biết nay có ai còn sống hay không? Tôi chỉ biết chắc rằng Ðại-tướng Võ Nguyên Giáp vừa
là Bộ-trương bộ Quốc-phòng vừa là ủy viên Bộ Chính-trị là còn tại thế.
Ðại-tướng là người có học thức cao nhất bộ Chính-trị, từng là giáo sư
Sử-học. Bấy giờ lại là lúc uy tín, quyền hành của Ðại-tướng lên tột
đỉnh. Vụ ông Phạm Văn Ðồng ký văn kiện này, Ðại-tướng phải biết. Nay
Ðại-tướng đang đi vào những ngày cuối cùng của đời người, nếu sĩ khí,
dũng khí của Ðại-tướng còn thì xin Ðại-tướng cho quốc dân biết được
không?...
- Nếu
nói rằng khi ký văn kiện trên là tự ý Thủ-tướng Phạm Văn Ðồng thì không
thể nào tin được vì chính ông Phạm Văn Ðồng từng than rằng: Ông là một
Thủ-tướng lâu năm nhưng không có quyền hành gì, ngay cả việc muốn thay
một Bộ-trưởng cũng không được. Vậy thì đời nào ông dám ký văn kiện dâng
đất cho Trung-quốc!
-
Ví thử ông Phạm Văn Ðồng tự ý ký văn kiện trên thì năm 1977, văn kiện
ấy lộ ra ngoài, người Việt hải ngoại từng đem đăng báo, ông Phạm Văn
Ðồng hãy còn sống, sao Bộ Chính-trị, Quốc-hội và Chính-phủ không truy tố
ông ra tòa về tội phản quốc? Tội này trong hình luật Việt-Nam phải xử
tử hình. Thế mà ông ấy vẫn ung dung sống thêm bốn chục năm nữa, đầy
quyền hành?
-
Liệu những tài liệu, biên bản về buổi họp này có nằm tại văn phòng Bộ
Chính-trị, văn phòng bộ Ngoại-giao CHXHCNVN không? Các vị trong Bộ
Chính-trị hiện thời có thể công bố cho quốc dân biết không? Nếu quý vị
im lặng thì muôn nghìn năm sau, lịch sử còn ghi: Ðảng Cộng-sản bán nước
mà không cầu vinh, cũng chẳng cầu tài chứ không phân biệt rằng Bộ
Chính-trị 1958 bán nước, còn Bộ Chính-trị 2001 không hề làm việc nàỵ
Chúng tôi xin ngừng lời để Quý-vị thắc mắc trước khi điều trần sang phần thứ nhì.
Kính thưa Quý-vị,
Bây giờ tôi xin điều trần sang phần thứ nhì, đó là:
4. Vụ nhượng lãnh thổ mới đâỵ
* Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt-Nam, Trung-quốc ngày 30-12-1999.
* Hiệp định phân định lãnh hải Việt-Nam, Trung-quốc
ngày 25-12-2000.
4.1 - Ai chịu trách nhiệm về hai hiệp định.
Hai hiệp định này đều ký trong thời gian 1999-2000.
Vào thời kỳ này tại Việt-Nam thì:
- Ông Lê Khả-Phiêu làm Tổng Bí-thư đảng Cộng-sản ViệtNam,
- Ông Trần Ðức-Lương làm Chủ-tịch nhà nước,
- Ông Nông Ðức-Mạnh làm Chủ-tịch Quốc-hội,
- Ông Phan Văn-Khải làm Thủ-tướng.
- Ông Nguyễn Mạnh Cầm làm Bộ trưởng Ngoại-giaọ
Ai chịu trách nhiệm khi ký hai hiệp định trên? Cá nhân thì tôi không biết nhưng có một điều tập thể thì ai cũng khẳng định là Bộ Chính-trị của đảng Cộng-sản Việt-Nam. Không
cần biết người ký là Chủ-tịch Trần Ðức-Lương, Thủ-tướng Phan Văn-Khải
hay Bộ-trưởng Ngoại-giao Nguyễn Mạnh-Cầm. Tôi xin khẳng định: Ai ký cũng
chỉ là người tuân lệnh Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Nhưng người quyết định là aỉ ?!?
Ông
Phan Văn-Khải, Nguyễn Mạnh-Cầm - Hai ông này không có quyền, dù có
quyền các ông ấy cũng không dám quyết định. Ông Lê Khả-Phiêu quá yếu,
không thể quyết định một mình. Ông Trần Ðức-Lương, Nông Ðức-Mạnh càng
không có quyền gì. Vì vậy,tôi mới quyết đoán rằng vụ này do Bộ Chính-tri
đảng Cộng-sản chủ trương. Hiện
tất cả các ông trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu vẫn còn sống, rất
khỏe mạnh. Khi quyết định nhượng đất, biển cho Trung-quốc các ông ấy đều
biết rất rõ rằng:
-
Tinh thần dân chúng bây giờ không phải như dân chúng hồi 1540. Trình độ
dân chủ, phương tiện thông tin của đảng viên, của dân chúng vượt xa hồi
1958. Uy tín của Tổng Bí-thư Lê Khả-Phiêu không thể so sánh với
Chủ-tịch Hồ Chí-Minh năm 1958. Mỗi vị trong Bộ Chính-trị bây giờ là một
mảng chứ không thể là một khối như Bộ Chính-trị hồi 1958. Các vị trong
Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu đều biết trước rằng: Ký hiệp ước nhượng
lãnh thổ trong lúc này không thể bịt miệng, giấu giếm đảng viên cũng như
dân chúng. Thế nhưng các ông ấy vẫn làm! Vì vậy phải có nguyên do gì
trọng đại lắm. Liệu các ông có thể công bố cho quốc dân biết không?
-
Thời gian ấy (1999-2000) đảng Cộng-sản lấn át Chủ-tịch Nhà-nước cũng
như Thủ-tướng nhất đến nỗi Chánh-văn phòng Thủ-tướng chỉ vì nói một câu
không mấy lịch sự với người đàn bà có thế lực trong đảng mà bị bắt giam
không lý do, Thủ-tướng không thể can thiệp cho ông ta tại ngoạị.
- Quyền
gần như nằm trong tay ba ông Cố-vấn là cựu Tổng Bí-thư Ðỗ Mười, cựu
Chủ-tịch nhà nước Lê Ðức-Anh và cựu Thủ-tướng Võ Văn-Kiệt. Ba ông này như ba Thái-thượng hoàng thời Trần. Tuy mang danh Cố-vấn nhưng ba ông vẫn còn uy quyền tuyệt đốị
-
cũng trong thời gian ấy, cả thế giới (trừ Trung-quốc) đều có chính sách
ngoại giao rất đẹp với Việt-Nam: Hoa-kỳ (Tổng-thống Bill Clinton),
Liên-Âu, các nước ASEAN đang theo đuổi chính sách ngoại giao rất mềm dẻo
với Việt-Nam, nhất là Tổng-thống Clinton ký sắc lệnh bỏ cấm vận
Việt-Nam, mở cửa cho sinh viên Việt-Nam sang du học Hoa-kỳ, mở cửa cho
hàng Việt-Nam được nhập vào Hoa-ky. Nói tóm lại, thời gian từ nửa năm
1999 cho đến cuối năm 2000, Việt-Nam không bị một áp lực quốc tế nguy
hiểm nào đến độ phải nhượng đất, nhượng biển cho Trung-quốc để được viện
trợ vũ khí, để được che chở.
-
cũng thời gian trên, Trung-quốc, Việt-Nam không có tranh chấp lãnh thổ,
không có đụng chạm biên giới, không có căng thẳng chính trị, không có
chiến tranh. Vậy vì lý do nào mà các ông ấy cắt đất, cắt biển cho
Trung-quốc? 4.2 - Chi tiết vụ cắt đất.
Vụ
cắt đất ký ngày 30-12-1999 thì tôi được biết tin chi tiết do hai ký giả
Trung-quốc là bạn với tôi thông vào ngày 9-1-2000 nghĩa là 10 ngày sau,
hai anh thuật theo tinh thần bản hiệp định thì:
-
Việt-Nam nhường cho Trung-quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông
(chứ không phải 720 như tin lộ ra trong nước) thuộc hai tỉnh Cao-bằng,
Lạng-sơn.
- Có mấy hiệp định thư (Photocol) đính kèm về việc thi hành. Quan trọng nhất là :
- Nhượng vùng Cao-bằng, sát tới hang Pak-bó,
nơi Chủ-tịch Hồ Chí Minh ẩn thân lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hang này
trở thánh địa của đảng Cộng-sản Việt-Nam, trước kia nằm rất xa biên giới
(khoảng 50 km), nay nằm sát biên giới.
- Nhượng vùng đất bằng phẳng thuộc tỉnh Lạng-sơn nơi có cửa ải Nam-quan.
Thưa Qúy-vị,
4.3 - Ảnh hưởng vụ cắt đất.
4.3.1 - Mất biểu tượng năm nghìn năm của tộc Việt.
Khu
Ải Nam-quan này là vùng đất thiêng, là Thánh địa trong mấy nghìn năm
của người Việt. Bất cứ người Việt nào từ 6 tuổi trở lên đều biết rằng Ải
Nam-quan là vùng đất tượng trưng biên giới phía Bắc, tượng trưng cho
lãnh thổ, cho tinh thần tự chủ, cho niềm tự hào của họ. Ðây là vùng đất
đi sâu vào lịch-sử, văn-học và tâm tư toàn thể người Việt. Trở về quá
khứ, trong lần mạn đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch Ðông và Chủ-tịch Hồ Chí
Minh. Chủ-tịch Mao Trạch Ðông đã nói:
"Cái
tên Ải Nam-quan nhắc nhở đến cuộc chiến do bọn phong kiến Hoa, Việt làm
xấu tình hữu nghị nhân dân. Tôi xin đổi thành Mục Nam-quan. Mục là mắt,
coi như nhân dân Trung-quốc luôn hướng mắt nhìn về nhân dân Việt ở
phương Nam. Ngược lại, coi như mắt của nhân dân Việt luôn nhìn về Bắc
với tình hữu nghị".
Chủ-tịch
Hồ Chí-Minh vui vẻ chấp thuận. Nhưng trên thực tế, chỉ có phía
Trung-quốc in trên bản đồ địa danh Mục Nam-quan mà thôi. Còn phía
Việt-Nam trên bản đồ hành chính, trên báo chí, văn học, vẫn dùng từ Ải
Nam-quan hay cửa Hữu-nghị.
4.3.2 - Mất cửa ngõ giao thông lịch sử giữa tộc Hoa, tộc Việt.
Tôi
đã nhiều lần từ Việt-Nam sang Trung-quốc bằng cửa ải này và ngược lạị
lãnh thổ Hoa-Việt được phân chia bởi một con sông nhỏ. Ðây là cửa họng
giao thông của Trung-quốc, Việt-Nam bằng đường bộ. Suốt hơn mấy nghìn
năm qua, dân Hoa-Việt giao thương đều qua đây. Chính vì vậy mà con đường
quốc lộ xuyên Việt mang tên Quốc-lộ 1, được đánh số cây số Zéro từ đầu
cây cầu Nam-quan. Tất cả thư tịch Việt-Nam đều chép rằng:
"Con đường Bắc-Nam khởi từ ải Nam-quan".
Hoặc : "lãnh thổ Việt-Nam Bắc giáp Trung-hoa, khởi từ ải Nam-quan đến mũi Cà-mâu theo hình chữ S".
Bây
giờ nếu Quý-vị vào Website của Bộ Ngoại-giao Việt-Nam, Quý-vị sẽ không
thấy hàng chữ trên mà chỉ thấy câu: "lãnh thổ Việt-Nam khởi từ cây số
không ở phía Bắc".
Thưa Quý-vị,
Cái
cây số không đó là cây số 5 cũ đấy. Cột cây số Zéro bây giờ ở phía Nam
cột Zéro cũ 5 cây số. Từ cây số Zéro đến cây số 5 nay thuộc Trung-quốc.
Sát cây cầu Nam-quan, phía bên Trung-quốc cũng như Việt-Nam, đều có nhiều cơ sở:
- Cơ sở Hải-quan.
- Bãi đậu cho hằng trăm xe tải để chờ kiểm soát, chờ làm thủ tục nộp thuế.
- Cơ sở di trú của Công-an để kiểm soát Passeport.
- Ðồn của quân đội để tuần phòng, bảo vệ lãnh thổ.
- Hằng chục cơ quan khác như Bưu điện, Ngân-hàng, công ty điện, nước.
- Về phía dân chúng, hằng trăm cửa hàng ăn, nhà ngủ, khách sạn...
Các
cơ sở phía Nam thuộc Việt-Nam, trong chiến tranh Hoa-Việt 1979, quân
đội Trung-quốc đã san bằng hết, kể cả cây cột biên giới. Tuy
vậy, sau chiến tranh, đã xây dựng lại hoàn toàn. Từ khi có phong trào
mở cửa, đổi mới chính trị, dân chúng cả hai bên đã xây dựng lại khang
trang hơn cũ, rộng lớn hơn cũ và hiện đại hơn cũ. Nhưng từ khi hiệp định
30-12-1999 ký thì toàn bộ khu này thuộc Trung-quốc, những cơ sở đó bây
giờ được thay bằng một tòa nhà duy nhất.
4.3.3, Mất dân, mất di tích lịch sử
Ði
sâu vào khu vực phía Nam của Nam-quan ít cây số nữa là quận lỵ Ðồng
đăng rồi tới tỉnh lỵ Lạng-sơn. Ðây cũng là đất thiêng, khu có di tích
văn hóa lịch sử của tộc Việt: Ðộng Tam-thanh, tượng núi Tô-thị, thành
của bọn giặc Mạc trên núi. Vùng Lạng-sơn xưa là Thủ-đô của con cháu giặc
MạcÐăngÐung mà năm 1540 đã dâng đất cho Trung-quốc để được bao che cát
cứ quân phiệt một thời gian. Trong chiến tranh Hoa-Việt 1979, hầu như
toàn bộ các cơ sở kỹ nghệ, cầu cống, dinh thự, di tích tôn giáo, lịch
sử, cơ sở hành chính, thương mại, kể cả nhà cửa của dân chúng bị san
bằng. Chắc Quý-vị cho rằng tôi dùng từ Coventry có đôi chút quá đáng.
Thưa Quý-vị từ Coventry cũng chưa đủ để chỉ việc quân đội Trung-quốc đã
làm ở Lạng-sơn. Kinh khiếp nhất là động Nhất-thanh, Nhị-thanh,
Tam-thanh, họ cũng dùng đại bác bắn vào làm hư hại rất nhiềụ
Ði
sâu về phía Nam ít cây số nữa là Ải Chi-lăng, nơi mà quân Trung-quốc
vượt qua không biết bao nhiêu lần để tiến về thủ đô Thăng-long của
Việt-Nam xưa. Tại đây đã diễn ra những trận chiến ác liệt, khiến ít nhất
73 vạn quân của các triều đại Tống, Mông-cổ, Minh, Thanh bị giết. Và
cũng tại đây, có không biết bao nhiều tướng của các triều đại trên bị tử
trận. Khi quân Việt giết những tướng, dù vào thời kỳ nào chăng nữa thì
đầu vẫn bêu tại một mỏm núi, gọi là núi Ðầu-quỷ. Tại ải Chi-lăng, núi
Ðầu-quỷ đều khắc bia đá ghi lại di tích lịch sự Hồi chiến tranh Hoa-Việt
1978, khi các tướng Hồng-quân cho quân tiến đến đây, nghe nhắc chuyện
cũ thì họ toát mồ hôi lạnh, phải ngừng lại. May mắn thay, khu này vẫn
còn thuộc lãnh thổ Việt.
Trở
lại vùng đất mà đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhượng cho Trung-quốc, dĩ
nhiên họ nhượng cả dân chúng nữa. Trong năm nghìn năm lịch sử chiến
tranh Hoa-Việt, dân chúng, chiến sĩ tại vùng này là lực lượng đầu tiên
chống quân Trung-quốc. Họ phải hy sinh tính mạng, tài sản đầu tiên, khi
quân Trung-quốc đánh sang. Có không biết bao nhiêu di tích, huyền sử về
núi non, về sông ngòi về cuộc chiến, về gương anh hùng. Chính quyền các
triều đại đều tuyên dương công lao của họ, họ từng hãnh diện đời nọ sang
đời kia. Bây giờ vùng này trao cho Trung-quốc, kẻ thù năm nghìn năm của
họ. Họ bị mất mát quá nhiều về tinh thần. Họ phải cúi mặt chịu sự cai
trị của kẻ thù. Bao nhiêu di tích lịch sử, huyền sử phải phá bỏ, không
được nhắc tới. Thương tổn tinh thần quá lớn Gần đây nhất, trong chiến
tranh 1978, phía Việt cũng như Trung-quốc, chôn trên lãnh thổ mình, dọc
theo biên giới mấy chục vạn quả mìn, sau chiến tranh mới đào lên. Phía
Việt lập rất nhiều đồn, hầm, công-sự chiến đấu dọc biên giới thành 4
vòng đai. Mấy chục nghìn chiến sĩ Việt tử trận tại đây. Hiện những cơ sở
đó vẫn còn. Trong khu vực này dân chúng, gia đình liệt sĩ đã ghi dấu
tưởng niệm thân nhân họ, nay trao cho Trung-quốc, dĩ nhiên các di tích
này bị phá hủy. Dân chúng đang là lực lượng chong mặt với kẻ thù, bảo vệ
lãnh thổ, nay họ bỗng trở thành những người Trung-quốc bất đắc dĩ. Các
vòng đai phòng thủ bị mất. Dân tộc Việt-Nam mất mát về an ninh quá
nhiều.
4.4 - Vụ cắt lãnh hảị
Hiệp định phân định lãnh hải Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000.
Từ giữa thế kỷ thứ 19 về trước, chưa từng có việc ấn định rõ lãnh hải Việt-Hoa. Tuy nhiênvào thế kỷ thứ 15, Việt-Nam đã định lãnh hải qua vụ nhà vua sai vẽ Hồng đức bản đồ.Theo bản đồ này thì các quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) và Trường-sa (Nam-sa) thuộc Ðại-Việt. Và
hai quần đảo đó đều thuộc Việt-Nam cho đến khi Bộ Chính-trị thời 1958
trao cho Trung-quốc (trên lý thuyết). Vào những thời kỳ ấy (1500-1887),
Thủy-quân cũng như thương thuyền, tầu đánh cá của cả Hoa lẫn Việt chỉ là
những thuyền nhỏ, không ra xa bờ biển làm bao nên chưa có những đụng
chạm.
Sau khi triều Nguyễn của Việt-Nam ký hòa ước năm 1884, công nhận quyền bảo hộ của Pháp thì người Pháp mới định rõ lãnh hải. Nước Pháp với tư cách bảo hộ Việt-Nam, đã ký với Thanh-triều hòa ước 1887, định rõ lãnh hải trong vùng vịnh Bắc-Việt. Ðối
với hòa ước này, Việt-Nam đã chịu khá nhiều thiệt hại vì mất một số đảo
mà dân chúng là người Việt, nói tiếng Việt, mặc y phục Việt, sống trong
văn hóa Việt. Cho đến nay (2001), dân trên các đảo này vẫn còn nói
tiếng Việt, ẩm thực theo Việt và dùng y phục Việt. Chúng tôi đã từng
thăm vùng này hồi 1983. Tuy nhiên với hòa ước 1887, lãnh hải vịnh
Bắc-Việt được phân chia như sau: Trung-quốc 38% Việt-Nam 62% .
Ðối với người Pháp, thời đó họ chưa hiểu rõ tình trạng giữa Trung-hoa
và Việt-Nam, họ thấy Thanh-triều chấp nhận 38%, thì cho rằng mình thắng
thế. Còn Thanh-triều khi đạt được 38%, họ coi như một món quà trên trời
rơi xuống vì trong quá trình lịch sử, Trung-quốc vẫn coi vịnh Bắc-Việt
là của Việt-Nam. Chứng cớ:
-
Vùng đất Hợp-phố là đất cực Nam của Trung-quốc, thế nhưng lại có hải
cảng Bắc-hải. Bắc đây chỉ có thể là Bắc đối với Việt-Nam. Nếu là đất của
Trung-quốc họ phải gọi là thị xã Nam-hải chứ? Rõ ràng vùng này là đất
cũ của Việt-Nam.
-
Vùng vịnh nằm ở phía Nam Trung-quốc, phía Tây đảo Hải-Nam, phía Ðông
Bắc Việt-Nam mà Pháp-Hoa ký hòa ước 1887 đó, Việt-Nam gọi là vịnh
Bắc-Việt. Trung-quốc cũng gọi là vịnh Bắc-bộ. Cho đến nay (2001), họ
cũng vẫn dùng tên đó. Vậy thì rõ ràng vịnh này của Việt-Nam. Nếu của
Trung-quốc thì họ phải gọi là vịnh Nam-bộ chứ?
Bây giờ đến hiệp định Việt-Hoa 25-12-2000 thì vùng vịnh Bắc-bộ được chia ra như sau:Việt-Nam 53% Trung quốc 47%. So với trước 1887 thì Việt-Nam chỉ mất có 38%, nay mất thêm 9% nữa!
4.5 - Ảnh hương vụ cắt lãnh hảị
4.5.1 - Mất lãnh hải, quốc sản.
Theo
hiệp định này thì rõ ràng đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhường cho
Trung-quốc tới 9% lãnh hải vùng vịnh Bắc-Việt. Cái đau đớn là vùng
nhượng là vùng:
-
Có nhiều hải sản về cá thu, cá song, cá hồng, mực là những loại hải sản
quý - Dưới đáy biển có mỏ hơi đốt, và dầu lửa - Một số đảo trong vùng
nhượng thuộc Trung-quốc.
4.5.2 - An ninh quốc gia bị đe dọạ
Nếu
vụ nhượng đất nguy hại về phương diện tinh thần, kinh tế thì vụ nhượng
lãnh hải lại nguy hại về an ninh vì Trung-quốc có thể dùng các đảo này
làm phi trường quân sự, căn cứ Hải-quân để uy hiếp Thủ-đô Hà-nội và các
tỉnh trung châu Bắc-Việt và miền Trung, miền Nam Việt-Nam. Tin của ECL
ghi lại, trong những cuộc hội đàm Hoa-Việt về lãnh hải, Trung-quốc đòi
cho được mấy đảo nhỏ trong vùng. Cũng những tin của ECL về các cuộc hội
của Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam thì việc chủ trương nhượng các
đảo do quyết định của toàn thể, không do ba ông Cố-vấn Ðỗ Mười, Lê
Ðức-Anh hay Võ Văn-Kiệt. Ðể tỏ ý hoàn toàn quy phục Trung-quốc, Bộ Chính trị cũng trao cho Trung-quốc toàn bộ kế hoạch phòng thủ phía Bắc Việt-Nam.
Theo ý kiến chúng tôi thì trong Bộ Chính-trị bấy giờ, nhóm quân đội rất
mạnh, chủ chốt có ba vị tướng là Lê Khả-Phiêu, Phạm Văn-Trà, Phạm
Thanh-Nhàn. Trong tài liệu này, có phần ước tính tình hình Trung-quốc,
Việt-Nam, đại lược như sau:
"-
Trung-quốc không có khả năng dùng Không-quân tấn công vào Thủ-đô Hà-nội
và các tỉnh đồng bằng Bắc-bộ vì khoảng cách từ các phi trường Quảng
đông, Quảng-tây, Vân-nam, Hải-Nam quá xa, phi cơ chỉ có thể tới oanh tạc
nhưng trở về thì không đủ nhiên liệu.
-
Nếu Trung-quốc tiến công bằng đường bộ thì ít nhất phải có một triệu
quân. Với một triệu quân mỗi ngày cần 10.000 lượt ô-tô tiếp tế mà đường
bộ thì các ngả Lai-châu, Lào-cai, Hà-giang không dùng được. Chỉ có ba
ngả chính tạm dùng: Một là Lạng-sơn, hai là Hạ-long (Quảng-yên cũ), ba
là Cao-bằng. Ba ngả đó đường sá gồ ghề, núi non hiểm trở. Với 10.000
lượt xe thì chỉ ba ngày là đường nát hết.
Comments
Post a Comment